Năm 1986, mốc đánh dấu bước chuyển nhảy vọt về tư duy lý luận của Đảng ta khi quyết định đổi mới toàn diện đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về phát triển kinh tế. Đó là sự nhận thức sâu sắc và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng, như đồng chí Lê Duẩn thường nói, phải có tư duy độc lập, tự chủ, vì chân lý bao giờ cũng cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Mỗi dân tộc phải độc lập, tự chủ giải quyết những vấn đề cơ bản của nước mình, kinh nghiệm của nước ngoài chỉ có thể để tham khảo. Suốt đời đồng chí đã suy nghĩ và hành động như thế.
Lùi lại hơn 30 năm về trước, chúng ta có thời gian để suy ngẫm và khẳng định rằng, tư duy đổi mới của Đảng, trong đó có vai trò của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã xuất hiện từ rất sớm. Sau năm 1954, cơ chế quản lý kinh tế tập trung theo mô hình Liên Xô trước đây và Trung Quốc đã được vận hành ở Việt Nam. Nền kinh tế chỉ còn hai thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là khu vực quốc doanh và khu vực hợp tác xã. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, nhất là vào giai đoạn đầu, cơ chế kinh tế này có ưu điểm là thúc đẩy nhanh tích tụ vốn. Mặc dù bị chiến tranh chi phối sâu sắc, miền Bắc Việt Nam vẫn đạt được nhiều thành tựu nhất trong thời kỳ kế hoạch 5 năm 1960-1965.
Điều đặc biệt là ngay trong thời kỳ này đã có mầm mống của tư tưởng đổi mới. Vào năm 1964, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập nhóm nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế. Mặc dù chưa đề cập đến khái niệm “cải cách kinh tế” nhưng điều chắc chắn là đồng chí Lê Duẩn cũng như trong các cấp lãnh đạo đã nhận thức được rằng, mô hình kinh tế hiện hành cần được cải tiến, sửa đổi sao cho hiệu quả hơn. Khi Trung ương chưa tìm được một hướng đi mới thực sự hiệu quả thì ở Vĩnh Phú, Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc đã áp dụng mô hình “khoán hộ” nhằm bứt phá để mở đường cho phát triển sản xuất nông nghiệp.
Khi Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc bị kỷ luật oan, đồng chí Lê Duẩn đã đến Vĩnh Phú để thăm và chia sẻ, động viên. Trò chuyện với đồng chí Kim Ngọc về kinh tế hợp tác xã nông nghiệp, đồng chí Lê Duẩn nói: “Về hoạt động kinh tế của hợp tác xã, tôi có điều rất phân vân. Bởi vì, 5% ruộng đất giao cho gia đình thì người ta làm ra 45% thu nhập, còn 95% ruộng đất giao cho hợp tác xã thì chỉ làm ra khoảng 50% thu nhập, dù 50% này là lương thực rất cần cho xã hội. Tôi phân vân đã lâu, nhưng thật sự chưa nghĩ ra được cách gì giải quyết. Nay anh đề ra “khoán hộ” thì có lẽ đó cũng là một cách. Nhưng vì quá mới, ngược với suy nghĩ và cách làm lâu nay, cho nên đa số anh em không đồng tình với anh. Anh yên tâm, một sáng kiến làm ăn mới chưa được mọi người chấp nhận ngay thì cũng là chuyện bình thường”. Đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Chắc chắn rồi đây sẽ có nhiều trường hợp tương tự”.
Từ “những cánh én mùa xuân” có thể nói là đang còn rời rạc nhưng khẳng định một thực tế là đổi mới kinh tế theo hướng thị trường đã được ấp ủ, kiểm nghiệm ngay từ buổi đầu của mô hình kế hoạch hóa tập trung. Và chính đây là một cuộc “cách mạng” mới, cuộc đấu tranh thực sự giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vận động tất yếu của lịch sử và sự duy ý chí, chủ quan; giữa thực tế sinh động và lý luận giáo điều. Cuộc đấu tranh này không chỉ là đấu tranh tư tưởng giữa “hai trường phái” mà còn là cuộc đấu tranh trong tư tưởng mỗi cá nhân, trước hết là trong các đồng chí lãnh đạo cấp cao và đồng chí Lê Duẩn là một trong những người tiên phong về tư duy đổi mới.
|
Khu du lịch Cửa Việt, Gio Linh . Ảnh: Thành Dũng
|
Mặc dù phải tập trung tâm lực chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày càng khốc liệt, đồng chí Lê Duẩn vẫn suy nghĩ nhiều về nền kinh tế Việt Nam đang trên con đường tìm một hướng đi hiệu quả và đồng chí nhận thức được rằng cần phải nắm bắt và tôn trọng quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chính thời điểm này, đồng chí đã sớm nhận rõ một sự thật cốt lõi là Đảng ta nắm quy luật trong đánh giặc ngoại xâm “trưởng thành hơn”, già dặn hơn so với trong xây dựng đất nước.
Trong tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới” viết năm 1970 nhân kỷ niệm 40 năm thành lập Đảng, đồng chí đánh giá: “Đảng ta đã trưởng thành trong việc nắm quy luật của cách mạng dân tộc dân chủ, quy luật của chiến tranh nhân dân; song chỉ mới bước đầu đi vào nắm những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần phải có một sự cố gắng vượt bậc, một sự trưởng thành vượt bậc về mặt này thì Đảng ta mới đủ sức làm tròn nhiệm vụ là người lãnh đạo xã hội”. Đồng chí chỉ rõ nếu cho rằng đã có chuyên chính vô sản và lòng hăng hái là đủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội mà “không cần tính đến các quy luật khách quan, không cần tính đến những sự kiện kinh tế đôi khi rất “ngoan cố và bướng bỉnh” thì tức là phạm một sai lầm hết sức nghiêm trọng”.
Đồng chí nêu kinh nghiệm của Lênin khi chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới (NEP) cho thấy, để đảm bảo tôn trọng đầy đủ quy luật khách quan, tuyệt đối không được lấy ý chí chủ quan, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát của chiến lược, sách lược cách mạng, đặc biệt, điều quan trọng là phải có khả năng nắm bắt và hiểu đúng quy luật khách quan: “Vạch ra chính sách kinh tế mới và để thực hiện chính sách ấy, Lênin đã phải tốn không biết bao nhiêu công sức để thuyết phục cho những người cộng sản đầy nhiệt tình cách mạng nhưng không hiểu quy luật kinh tế thấy rằng chính sách kinh tế mới tuyệt nhiên không phải là chính sách phục hồi chủ nghĩa tư bản, trái lại, đó là chính sách duy nhất có thể có đối với nước Nga lúc bấy giờ nhằm chiến thắng chủ nghĩa tư bản và quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Từ kinh nghiệm thực hiện NEP của Lênin và từ yêu cầu của thực tiễn, đồng chí Lê Duẩn cho rằng Đảng ta còn phải dày công suy nghĩ nhiều hơn nữa, nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc hơn nữa quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cũng trong tác phẩm này, ở chương “Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”, đồng chí Lê Duẩn đã viết hẳn một mục về “Cải tiến chế độ quản lý kinh tế”. Luận điểm xương sống mà đồng chí nêu ra ở đây là: “Quản lý kinh tế là quản lý một cơ thể sống phát triển theo những quy luật khách quan”. Luận điểm về “cơ thể sống” này giúp chúng ta vừa tránh sa vào chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn máy móc cách làm của nước ngoài, vừa biết lắng nghe sự “mách bảo” từ thực tiễn để đúc kết thành lý luận đổi mới.
Trong xây dựng kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa thường nặng về cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nước ta cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng với quan điểm tôn trọng khách quan, “nhạy cảm với những nhân tố mới phát sinh ra trong thực tiễn”, đồng chí Lê Duẩn đã sớm nhấn mạnh đến vai trò của thị trường đối với công tác kế hoạch nói riêng và xây dựng kinh tế nói chung: “Trong khi lãnh đạo kinh tế, phải khéo kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cái sau bổ sung cho cái trước.
Chúng ta không những có thể và cần phải thông qua kế hoạch hoá-xây dựng cương lĩnh thứ hai của Đảng và pháp lệnh thống nhất của Nhà nước chuyên chính vô sản-để điều tiết những quan hệ kinh tế cơ bản, những tỷ lệ cân đối chủ yếu, mà còn phải chủ động lợi dụng những quan hệ thị trường để kiểm tra các chỉ tiêu kinh tế, để điều tiết một số hoạt động kinh tế thứ yếu mà kế hoạch không thể tính trước được hết; không những phải nắm vững công tác kế hoạch hoá và các chỉ tiêu kế hoạch, mà còn phải quản lý đúng đắn các hoạt động của thị trường nhằm phát huy tác dụng tích cực của nó, đồng thời ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế theo kế hoạch”.
|
Công nhân làm việc tại Công ty may Hòa Thọ - Đông Hà. Ảnh: Thành Dũng
|
Ở đây, đồng chí Lê Duẩn đã vừa sớm dự báo việc xây dựng Cương lĩnh thứ hai của Đảng mà thực tế sau này, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa nói đến cơ chế sử dụng thị trường có sự quản lý của nhà nước để tạo ra “phép thử thực tiễn” đối với các chỉ tiêu kế hoạch. Đồng chí còn nói đến “những vấn đề kinh tế cực kỳ quan trọng”, đó là vận dụng quy luật giá trị, thực hiện hạch toán kinh tế, sử dụng đúng đắn các đòn bẩy giá cả, tiền lương, lợi nhuận, tín dụng nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, khuyến khích mọi người phát huy sáng kiến và hăng hái lao động ích nước, lợi nhà.
Trong bối cảnh những năm chiến tranh, khi mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn theo lối cũ, tư tưởng “cải tiến chế độ quản lý kinh tế” của đồng chí Lê Duẩn đã thể hiện hướng đi mới là muốn cải tiến mô hình cũ. Cùng với tư tưởng đó của đồng chí Lê Duẩn, đáng chú ý, Hội nghị Trung ương lần thứ 20, tháng 4-1972 bàn về quản lý kinh tế đã chỉ ra sức cản của cơ chế quản lý hành chính cung cấp và chủ trương xoá bỏ nó để thực hiện phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ôm ấp một hoài bão lớn lao là nước nhà độc lập, tự chủ, kinh tế, văn hóa phát triển, nhân dân có cuộc sống no đủ, cao đẹp, giữ vững phong cách riêng thanh cao của người Việt Nam; sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, trước nguy cơ mới xuất hiện gây ra những khó khăn, thách thức vô cùng nặng nề, đồng chí Lê Duẩn tập trung suy nghĩ và cùng Bộ Chính trị đưa ra những quyết sách có tính đột phát về tư duy kinh tế, từng bước tháo gỡ nhiều nút thắt, đưa nền kinh tế - xã hội Việt Nam khởi sắc dần.
Dấu ấn quan trọng mở đầu là Hội nghị Trung ương 6, khoá IV họp vào tháng 8-1979 đã bàn về phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và sửa đổi chính sách kinh tế. Đáng chú ý, tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày báo cáo về “Cần xem xét sửa đổi chính sách kinh tế” thu hút sự tập trung thảo luận, với nhiều ý kiến khác nhau. Đồng chí Lê Duẩn cùng Bộ Chính trị đã tán thành việc cần phải sửa đổi chính sách kinh tế. Kết quả, hội nghị đã thông qua hai văn kiện: Nghị quyết về sản xuất hàng tiêu dùng và Nghị quyết về sửa đổi chính sách kinh tế. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã “đánh dấu bước đột phá đầu tiên về đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta”, thể hiện ở những nội dung quan trọng như: sử dụng nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân ở miền Nam, coi trọng và vận dụng quy luật giá trị, chấp nhận thị trường tự do về lương thực.
Lúc này, đồng chí Lê Duẩn đã đề cập việc chống cơ chế tập trung quan liêu, sử dụng sự tự điều chỉnh thông qua thị trường, thừa nhận sự tồn tại của thị trường ngoài kế hoạch. Đồng chí Lê Duẩn rất quan tâm đến lĩnh vực nông nghiệp và đề xuất nhiều quan điểm nhằm giải quyết vấn đề nông nghiệp phù hợp với điều kiện nước ta. Từ tình hình đất nước và khảo sát thực tế nhiều địa phương, đồng chí cùng Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 12 năm 1978 “về chính sách lương thực trước mắt”, mà điểm mới chính là: sau khi đã nộp đủ thuế và bán đủ lương thực cho nhà nước theo hợp đồng, các hợp tác xã và hộ nông dân được lưu thông tự do số lương thực còn lại. Tuy nhiên, trách nhiệm của người nông dân với ruộng đất vẫn chưa thực sự được giải tỏa và Nghị quyết 25 năm 1980 ra đời, khắc phục được cảnh “ngăn sông cấm chợ”, song thực tiễn phản ánh cho thấy, sức sản xuất ở nông thôn vẫn chưa được giải phóng.
Qua nhiều cuộc trao đổi giữa đồng chí Lê Duẩn với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nhiều đồng chí lãnh đạo Bộ, ngành đã bật lên vấn đề khoán sản phẩm trong nông nghiệp và Chỉ thị 100 năm 1981 ra đời, điểm đáng chú ý nhất là khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động, làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, đem hết nhiệt tình và khả năng ra lao động sản xuất. Đồng chí Lê Duẩn đi về các tỉnh đồng bằng sông Hồng kiểm tra và luôn nhắc nhở lãnh đạo các tỉnh cần ra sức cải tiến các hình thức khoán, mở rộng khoán sản phẩm, tham gia ý kiến với Trung ương để hoàn chỉnh hơn nữa chế độ “ba khoán”.
Đồng chí Võ Chí Công - Nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chính phủ) đã viết: “Đối với đường lối đổi mới của Đảng ta, đồng chí Lê Duẩn đã “bật đèn xanh” ngay từ đầu, ủng hộ mạnh mẽ việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, trước hết là đổi mới cách khoán sản phẩm cho người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1981. Đồng chí giao cho tôi dự thảo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và bảo tôi: Anh là Ủy viên Bộ Chính trị và Phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp cứ mạnh dạn làm nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao và chịu trách nhiệm về việc này”.
Là người gắn bó sâu sắc với đồng bào miền Nam qua nhiều thời kỳ hoạt động cách mạng, đồng chí trăn trở khi nhận thấy một vùng đồng bằng mênh mông, ruộng đồng “thẳng cánh cò bay” nhưng nhiều nông dân vẫn không có ruộng hoặc không đủ ruộng canh tác. Đồng chí tham gia nhiều ý kiến về việc điều chỉnh ruộng đất trên cơ sở đoàn kết giai cấp ở nông thôn, đồng thời yêu cầu cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành chính sách của nhà nước. Những ý kiến của đồng chí là cơ sở quan trọng để Ban Bí thư ra Chỉ thị 19 năm 1983 “về hoàn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ”.
|
Cửa khẩu quốc tế La Lay. Ảnh: P.V
|
Có thể khẳng định, từ những bước đột phá về chính sách nông nghiệp thời kỳ 1981-1985 mà đồng chí Lê Duẩn đã suy nghĩ và đưa ra những quyết định kịp thời là tiền đề để Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa VI ra Nghị quyết 10 năm 1988 “về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Tư tưởng đổi mới của đồng chí Lê Duẩn nổi bật lên ở việc tìm ra những giải pháp để tháo gỡ những khó khăn về kinh tế của đất nước. Cùng với nông nghiệp, bước đột phá thứ hai khởi đầu cho quá trình cải cách thị trường sau này là vấn đề giá cả, phân phối, lưu thông. Tháng 6-1980, đồng chí ký văn bản Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về cải tiến công tác phân phối, lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp và quản lý thị trường).
Trên cơ sở đó, Chính phủ ra Quyết định số 25/CP năm 1981 về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Theo quyết định này, công tác kế hoạch của các xí nghiệp được cải tiến, ngoài phần chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao cho xí nghiệp có vật tư bảo đảm, đáng chú ý còn có phần xí nghiệp tự làm (do xí nghiệp tự lo phần vật tư, nguyên liệu còn thiếu mà nhà nước không bảo đảm cung ứng đủ được) và sản xuất phụ (do xí nghiệp tự tổ chức thêm, không nằm trong nhiệm vụ sản xuất của xí nghiệp). Đối với sản phẩm thuộc phần xí nghiệp tự làm, giá bán buôn xí nghiệp dựa trên cơ sở giá thành tính theo giá mua nguyên vật liệu thoả thuận, đặc biệt, lợi nhuận định mức được tính gấp từ hai đến bốn lần lợi nhuận định mức đối với sản phẩm sản xuất theo kế hoạch nhà nước giao.
Đối với sản phẩm thuộc phần sản xuất phụ, ngoài việc ưu tiên bán cho thương nghiệp quốc doanh ra, xí nghiệp được tự tiêu thụ và được giữ lại không quá 10% để thưởng cho công nhân, viên chức trong xí nghiệp. Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 26/CP năm 1981 về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của nhà nước. Như vậy, Quyết định số 25/CP và 26/CP đã thể hiện tư duy mới trong xử lý các khâu giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng nhằm kích thích tăng năng suất lao động. Đến Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982), tư duy đổi mới, đặc biệt là điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xác định bước đi công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đồng chí Lê Duẩn và của Đảng đã có bước phát triển mới.
Đại hội đã thẳng thắn chỉ ra để loại bỏ hai loại tư duy cũ hoặc không phù hợp, đó là duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, kìm hãm sản xuất, đó là chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Từ việc quyết tâm loại bỏ tư duy cũ hoặc không phù hợp, Đại hội đã tiến đến tư duy mới, đó là đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, coi trọng quy luật giá trị và thừa nhận kinh tế nhiều thành phần.
Về cơ cấu kinh tế và bước đi trong công nghiệp hoá, Đại hội đã có sự điều chỉnh sát hợp theo hướng: Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, lấy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ là cơ sở để phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, bên cạnh việc đổi mới trên các lĩnh vực nông - công nghiệp, đồng chí Lê Duẩn và Đảng ta đã nhiều lần dốc sức tấn công vào “thành trì” quan liêu, bao cấp “ngoan cố và bướng bỉnh” nhất, đó là lưu thông phân phối.
Đợt cải cách giá và lương lần thứ nhất năm 1981-1982 đã điều chỉnh tăng giá, tăng lương, giảm mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, chuyển phần lớn giá cung cấp sang giá kinh doanh thương nghiệp. Sâu sát nắm bắt, nghiên cứu thực tiễn, khi ở tỉnh Long An xuất hiện cách làm mạnh dạn bỏ tem phiếu, thương nghiệp tỉnh được tự do bán lương thực, thực phẩm theo giá thoả thuận, đồng chí Lê Duẩn đã trực tiếp nghe lãnh đạo tỉnh Long An báo cáo kinh nghiệm và đánh giá đó là một sáng tạo, cần phổ biến, thực hiện trong toàn quốc.
Tiến lên một bước mới, Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 6-1985 đã quyết định dứt khoát xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, với khâu đột phá là xoá bỏ quan liêu, bao cấp trong giá - lương - tiền. Hội nghị Trung ương lần thứ tám là bước ngoặt quan trọng và là bước chuẩn bị quyết định cho đường lối đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Chủ trương như vậy là hoàn toàn đúng đắn nhưng rất tiếc, quá trình tổ chức thực hiện đã gặp khó khăn và mắc sai lầm: tiến hành nóng vội cả ba việc đổi tiền, tổng điều chỉnh giá và lương với mức độ lớn (10 lần) trong một thời gian ngắn khi chưa chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt (hàng hoá, nguyên liệu, tài chính), kế hoạch đổi tiền lại bị lộ sớm, hệ quả là gây sốc cho nền kinh tế.
|
Một góc Khu công nghiệp Quán Ngang, Gio Linh. Ảnh: P.V
|
Từ tình hình như vậy đã nảy sinh một số ý kiến hoài nghi chiều hướng đổi mới kinh tế đã mở ra và cho rằng, cần xem xét lại một cách cơ bản Nghị quyết Trung ương lần thứ 8. Nhưng Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 5-1986 đã khẳng định Nghị quyết Trung ương 8 là đúng đắn và Đảng ta về sau vẫn kiên trì đẩy mạnh đổi mới trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ theo định hướng Nghị quyết Trung ương 8 vạch ra và đã thành công. Điều đó càng khẳng định, Nghị quyết Trung ương 8 đã đánh dấu bước đột phá quan trọng trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng, trong đó có sự đóng góp rất quan trọng của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Về tư tưởng đổi mới của đồng chí Lê Duẩn, không thể không đề cập về vấn đề các thành phần kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III của Đảng xác định ba thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Nghị quyết lần thứ 24 của Bộ Chính trị tháng 9-1975 xác định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ở miền Nam.
Phát biểu tại hội nghị cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 7-1976, đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Tôi nói mấy ý kiến về năm thành phần kinh tế ở miền Nam, vì có một số đồng chí nhận thức không đúng vấn đề này. Năm thành phần kinh tế ở miền Nam là kết quả của chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Có thành phần quốc doanh chủ yếu do Nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng, không có sự xây dựng này thì kinh tế quốc doanh không thể lớn lên và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc doanh, thành phần công tư hợp doanh và kinh tế tập thể là kết quả chủ yếu của cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh ba thành phần kể trên, chúng ta cho phép kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể của những người sản xuất nhỏ tồn tại trong một phạm vi nhất định, chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất”.
Vì vậy, như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã viết: Đồng chí Lê Duẩn không “mặn mà” lắm với chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và đồng chí cũng không coi đó là một động lực cho sự phát triển, là nhân tố đưa đất nước ra khỏi đói nghèo, lạc hậu; mà thực tế càng làm cho đồng chí băn khoăn, trăn trở nhiều hơn. Trong hoàn cảnh gần như bế tắc, chính đồng chí là người khuyến khích những mô hình tháo gỡ, cởi trói trong nông nghiệp, công nghiệp. Trên thực tế, chủ trương về sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đã không được thông suốt về nhận thức và quán triệt đầy đủ trong hành động.
Mãi đến Đại hội toàn quốc lần thứ IX, tức là sau hơn 15 năm tiến hành đổi mới, chủ trương này mới được khẳng định một cách dứt khoát trong văn kiện Đại hội: Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đều bình đẳng trước pháp luật. Tư tưởng duy trì các thành kinh tế của đồng chí Lê Duẩn phải chăng liên quan đến tư tưởng hợp tác kinh tế với Mỹ, một siêu cường đế quốc đã xâm lược và gây biết bao đau thương cho dân tộc Việt Nam nhưng là một nước tư bản có trình độ phát triển cao. Đây là tư tưởng rất táo bạo, có thể nói là vượt thời gian của đồng chí khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, khi dân tộc Việt Nam khó có thể tha thứ cho những nhà cầm quyền nước Mỹ trong một sớm một chiều.
Tinh thần sẵn sàng chủ động hợp tác với Mỹ thể hiện rõ trong bài diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước do đồng chí Lê Duẩn trình bày: “Nước ta sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với nước Mỹ vì lợi ích của hai nước, vì lợi ích của hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á”. Vì vậy, khi một cán bộ Bộ Ngoại giao đi Mỹ về báo cáo với đồng chí Lê Duẩn rằng, cái gì ở Mỹ cũng xấu, đồng chí đã hỏi lại: “Mỹ xấu thế mà tại sao Liên Xô, Trung Quốc... đều nể Mỹ? Đồng chí báo cáo thế thì làm sao hợp tác được với Mỹ?”. Người cán bộ ngoại giao này đã phải báo cáo lại đúng sự thật và đúng như đánh giá của đồng chí Lê Duẩn về nước Mỹ. Ở đây, người cán bộ ngoại giao vì sợ “mất quan điểm, lập trường” mà đã báo cáo sai sự thật này đã không hiểu rằng, đồng chí Lê Duẩn cần biết sự thật về nước Mỹ để chuẩn bị làm ăn với Mỹ.
Trên lĩnh vực quan trọng tạo nguồn tích lũy cho đất nước là phát triển dầu khí, đồng chí Lê Duẩn cũng đã tính chuyện hợp tác với các nước tư bản, trong đó có Mỹ. Khi nghe trình bày dự thảo điều lệ Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt - Xô, đồng chí Lê Duẩn đã yêu cầu Chính phủ chỉ dành cho Liên Xô khai thác một số lô thôi, còn các lô khác dành để hợp tác với các nước tư bản, với Mỹ vì theo đồng chí “cách làm kinh tế của Mỹ có hiệu quả cao, không tìm cách làm ăn hợp tác kinh tế với Mỹ để phát triển là không khôn ngoan”.
Nhìn lại thời kỳ 5 năm 1981-1985, cho thấy một khoảng cách khá xa về sự phát triển so với thời kỳ 1976-1980. 5 năm 1981-1985, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đã chặn được đà giảm sút của những năm 1976-1980. Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9% so với 1,9% thời kỳ 19761980, bình quân sản lượng lương thực đạt 17 triệu tấn/năm, tăng 3,6 triệu tấn so với thời kỳ 1976-1980. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5% so với 0,6% hàng năm thời kỳ 1976-1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4% so với 0,4% trong những năm trước.
|
Lễ giao nhận quân được tổ chức tại công viên Lê Duẩn, thành phố Đông Hà. Ảnh: Phương Hoan
|
Về cơ sở vật chất, hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi và giao thông. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác. Nhiều cơ sở vật chất về công nghiệp, nông nghiệp đã tạo tiền đề cho quá trình phát triển của đất nước và đến nay vẫn còn phát huy tác dụng. Giai đoạn sau có bước phát triển khá so với giai đoạn trước chứng tỏ những tư tưởng đổi mới của đồng chí Lê Duẩn và của Đảng, nhất là của Đại hội V đã đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả rõ nét.
Những bước tiến, bước đột phá về đổi mới tư duy dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn đã tạo tiền đề, tạo cơ sở quan trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước sau này, đúng như đồng chí Đào Duy Tùng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Bộ Chính trị - Ban Bí thư đã khẳng định: “Đại hội Đảng lần thứ VI là bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội quyết định đường lối đổi mới và đường lối đó đi vào cuộc sống nhanh, không những vì nó đúng mà nó còn được chuẩn bị trước đó không chỉ về mặt tư duy mà cả về mặt điều kiện vật chất”, “Không có những việc thử nghiệm từ năm 1979 đến năm 1985, không có nhu cầu từ cuộc sống đầy khó khăn thì không thể có đổi mới”.
Còn rất nhiều băn khoăn, trăn trở khi nhìn lại chặng đường đã đi qua, cũng như hiện tại và tương lai phía trước và chúng ta một lần nữa hãy cùng nhau suy ngẫm về những lời chân thành của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Không ai có tài gì trong cùng một lúc có thể thấy hết mọi khía cạnh của vấn đề. Vả chăng, chính vì “Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo” nên nhiều khi đường lối cách mạng phải trải qua rất nhiều thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân lý”.