Những năm 1936 - 1939, đồng chí đã dày công truyền bá đường lối mới của Đảng, lãnh đạo phong trào quần chúng ở quê hương đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Trong bối cảnh nhiều cán bộ, đảng viên do bị giam cầm lâu ngày, mới ra khỏi nhà tù đế quốc, chưa liên lạc được với cấp trên, nên chưa nắm vững được chủ trương, chính sách, phương thức hoạt động của Đảng trong tình hình mới. Một số vẫn giữ quan điểm hoạt động theo phương thức cũ, không theo đường lối công khai, hợp pháp; một số tuy nhạy bén với tình hình nhưng chưa tiếp thu được chủ trương mới nên lúng túng trong hoạt động. Vì vậy, trong nội bộ cán bộ, đảng viên ở địa phương chưa thống nhất được phương thức đấu tranh cho phù hợp với thực tế. Trước tình hình đó, đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo cho cán bộ, đảng viên nhanh chóng bắt liên lạc với các cơ sở cũ, đồng thời đi khắp các địa bàn nắm tình hình và tổ chức truyền đạt cho các đảng viên về tinh thần của Nghị quyết Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất; Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7-1936; giải thích ý nghĩa của Mặt trận nhân dân đối với cách mạng nước ta, chỉ rõ sự chuyển hướng chỉ đạo và hình thức, phương hướng đấu tranh trong thời kỳ mới. Đồng chí tập hợp thanh niên ở các huyện Triệu Phong, Hải Lăng và Cam Lộ để tuyên truyền, giác ngộ, đưa họ vào tổ chức, tham gia hoạt động cách mạng. Đặc biệt, trước thực tiễn cách mạng trong nước và Quảng Trị, đồng chí nhấn mạnh: Phải triệt để lợi dụng những khả năng hoạt động công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp để lãnh đạo quần chúng, song không được quên việc duy trì và phát triển các tổ chức bí mật của Đảng, phòng khi bất trắc .
Với tư duy năng động, nhạy bén, trình độ lý luận sắc sảo, đồng chí Lê Duẩn đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chính sách của Đảng vào tình hình cụ thể ở Quảng Trị, đề ra chủ trương mới, sát đúng, tạo được uy tín lớn trong đông đảo đảng viên và quần chúng. Đồng chí nhanh chóng tìm hiểu phong trào, tập hợp cán bộ cốt cán làm hạt nhân lãnh đạo, chắp nối các cơ sở Đảng, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân chủ để đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.
Đầu năm 1937, trước áp lực của dư luận, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp cử một phái đoàn do Đại sứ Lao công của Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp là Guytxtanh Gôđa dẫn đầu sang Đông Dương điều tra tình hình. Trung ương Đảng đã quyết định phát động một phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân trên phạm vi toàn Đông Dương. Với danh nghĩa đón phái bộ Gôđa, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh các hình thức tổ chức hoạt động công khai, hợp pháp, nhằm tập hợp đông đảo quần chúng, tập trung mũi nhọn vào cuộc đấu tranh chống phản động thuộc địa và tay sai, chống nguy cơ chiến tranh phát xít.
Thực hiện chủ trương của Đảng, các cựu chính trị phạm trong tỉnh, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn, chủ trương nhân cơ hội này phát động phong trào quần chúng rộng rãi biểu dương lực lượng trong toàn tỉnh, lấy cớ thu thập nguyện vọng nhân dân chuyển tới Gôđa. Đồng chí Lê Duẩn làm trưởng ban đón tiếp Gôđa tại trung tâm thị xã tỉnh lỵ Quảng Trị. Hưởng ứng phong trào, hàng vạn nhân dân khắp nơi trong tỉnh đã biểu dương lực lượng, biểu tình đòi thả tù chính trị, bỏ thuế thân, giảm thuế điền thổ, đòi ban hành các quyền tự do, dân chủ... Dưới sự lãnh đạo tài tình của đồng chí Lê Duẩn, phong trào đón Gôđa trao bản dân nguyện ở Quảng Trị gây tiếng vang lớn, lan rộng trong toàn xứ Trung Kỳ, để lại dấu ấn sâu sắc trong phong trào cách mạng Quảng Trị thời kỳ 1936 – 1939.
Sau cuộc biểu tình đón Gôđa, mặc dù thực dân Pháp và phong kiến Nam triều tìm cách hạn chế hoạt động của chính trị phạm, song dưới sự lãnh đạo sâu sát và khôn khéo của đồng chí Lê Duẩn, phong trào cách mạng trong tỉnh vẫn phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, các tổ chức hợp pháp và nửa hợp pháp như tổ làm vàn, hội hiếu, tổ đọc sách báo phát triển ở nhiều nơi, trong đó tổ đọc sách báo có tác dụng lớn trong việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng.
Với sự sáng tạo, nhạy bén, đồng chí đã kịp thời chỉ đạo chuyển hướng về phương thức đấu tranh, kết hợp xây dựng và phát triển tổ chức quần chúng rộng rãi để giữ vững và phát triển phong trào cách mạng; đồng thời, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, gắn vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, nêu cao ngọn cờ dân chủ để tập hợp rộng rãi mọi giai tầng trong xã hội, trong dân tộc đứng về phía cách mạng chống lại bọn phản động thuộc địa và tay sai. Thông qua chỉ đạo phong trào dân chủ phát triển rộng rãi cả bề rộng lẫn chiều sâu, đồng chí Lê Duẩn đã tổ chức nhân dân Quảng Trị tiến hành cuộc tập dượt lớn nhằm tiến tới cao trào cứu nước 1939 – 1945, đỉnh cao là tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945.
Bên cạnh truyền bá đường lối mới của Đảng, thời kỳ 1936 - 1939, đồng chí Lê Duẩn còn thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong việc củng cố và phát triển tổ chức Đảng ở Quảng Trị, lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh tiếp tục dâng cao.
Trước sự lớn mạnh của Đảng bộ Quảng Trị, thực dân Pháp và tay sai tăng cường các hoạt động khủng bố, đàn áp khốc liệt. Đặc biệt, sau đợt khủng bố của địch tháng 7-1935, Đảng bộ Quảng Trị bị tổn thất lớn, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn, hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh đến huyện bị phá vỡ.
Tháng 10-1936, từ nhà tù Côn Đảo trở về Quảng Trị, đồng chí Lê Duẩn đã tiến hành ngay nhiệm vụ cấp thiết lúc bấy giờ là khôi phục tổ chức cơ sở Đảng, củng cố phong trào cách mạng. Với nhãn quan chính trị sắc bén và kinh nghiệm trong nhiều năm hoạt động cách mạng, đồng chí trực tiếp đi về các huyện Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh kiểm tra tình hình, chỉ đạo những ý kiến quan trọng về công tác giữ gìn bí mật và nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, uốn nắn những tư tưởng lệch lạc trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, đồng chí cùng với đồng chí Hoàng Thị Ái lên Ba Lòng buôn sắn khô, gây quỹ và tìm cách xây dựng cơ sở Đảng; thông qua việc tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia các phong trào cách mạng để xây dựng và củng cố tổ chức. Nhờ vậy, đến cuối năm 1936, Tỉnh ủy lâm thời được lập lại1, cơ sở Đảng được phục hồi nhiều nơi.
Để tiếp tục củng cố tổ chức Đảng đủ sức chỉ đạo phong trào cách mạng, trong các ngày từ 29-6 đến 1-7-1937, tại làng Phú Long (Hải Lăng), dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị được tổ chức. Tham dự Hội nghị có 30 đại biểu đại diện cho các tổ chức Đảng ở các phủ, huyện trong tỉnh. Dưới sự chủ tọa của đồng chí Lê Duẩn, Hội nghị đã phân tích phong trào cách mạng Quảng Trị; chỉ rõ nhiệm vụ và yêu cầu sắp tới; chú trọng nhiệm vụ củng cố, phát triển Đảng, tổ chức Đảng theo lối bí mật, bất hợp pháp; quyết định thành lập một số huyện ủy và xây dựng các chi bộ Đảng ở làng, xã; đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các tổ chức quần chúng theo hình thức công khai hợp pháp và nửa hợp pháp; quyết định xuất bản báo Tranh đấu, mỗi tháng ra 2 kỳ và bầu Ban Chấp hành gồm 7 đồng chí 1, do đồng chí Hoàng Hữu Chấp làm Bí thư Tỉnh ủy. Nhờ đó, phong trào cách mạng Quảng Trị tiếp tục dâng cao, cơ sở Đảng phát triển rộng khắp. Đến cuối năm 1937, Huyện ủy Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh được lập lại, toàn tỉnh có 100 đảng viên sinh hoạt trong 12 chi bộ Đảng. Năm 1938, mặc dù bị địch khủng bố, đàn áp, phong trào đấu tranh vẫn được duy trì rộng khắp ở các địa bàn trong tỉnh, số lượng đảng viên của Đảng bộ được tăng lên, toàn tỉnh có 40 chi bộ với 200 đảng viên. Quảng Trị là tỉnh đầu tiên ở Trung kỳ chính thức lập lại Tỉnh ủy.
Tỉnh ủy Quảng Trị được lập lại đã cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần to lớn đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân toàn tỉnh trong cuộc đương đầu với kẻ thù. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn, các đảng viên cộng sản vô cùng tin tưởng, phấn khởi tỏa về cơ sở phát động phong trào đấu tranh. Các cuộc đấu tranh đòi giảm thuế, đòi tự do báo chí, chống chiêu bài cải cách hương thôn, bầu cử dân biểu, chống khủng bố, đàn áp... liên tiếp diễn ra khắp các địa phương, nhất là các vùng nông thôn, đưa phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ phát triển lên một tầm cao mới, khiến bọn phản động Pháp và bè lũ tay sai lúng túng đối phó.
Từ năm 1939, tình hình thế giới dần có những chuyển biến bất lợi. Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa trở mặt, thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ, bắt bớ cán bộ. Là người lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm trong đấu tranh và tổ chức hoạt động bí mật, đồng chí đã kịp thời chỉ đạo Đảng bộ Quảng Trị chuyển hướng công tác, đề ra sách lược quan trọng là tập trung bảo vệ, che giấu an toàn lực lượng cán bộ, giữ gìn cơ sở Đảng, bảo đảm không để cán bộ bị bắt. Cán bộ huyện, tỉnh phải sẵn sàng thoát ly, tạm ẩn náu trong lúc địch ráo riết khủng bố. Nhờ chủ trương nhạy bén, kịp thời và sáng suốt đó mà hầu hết cán bộ chủ chốt của tỉnh Quảng Trị được bảo vệ. Quảng Trị thời kỳ này không những có đủ đội ngũ cán bộ bảo đảm cho phong trào mà còn bổ sung cho Xứ ủy và các tỉnh bạn khá đông cán bộ cốt cán. Phong trào cách mạng Quảng Trị tiếp tục phát triển cho đến ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp, mỗi lần ra Bắc, vào Nam, đồng chí đều nghỉ lại chiến khu Ba Lòng. Dừng chân ở quê nhà, đồng chí tranh giành gian trao đổi nhiều kinh nghiệm quý báu về chiến tranh nhân dân, về đấu tranh chống địch ở vùng tạm chiếm, về tổ chức và xây dựng lực lượng chính trị, công tác Đảng của các tỉnh Nam Bộ. Đồng chí có nhiều ý kiến chỉ đạo quan trọng để củng cố và phát triển phong trào kháng chiến ở Bình Trị Thiên nói chung và Quảng Trị nói riêng. Nói chuyện, căn dặn cán bộ, đảng viên về rèn luyện ý thức giai cấp và xây dựng tình cảm giai cấp... Sự chỉ bảo và những lời gửi gắm của đồng chí đối với quê hương trong những năm kháng chiến chống Pháp là động lực tinh thần quan trọng, tiếp thêm sức mạnh, ý chí và niềm tin để Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị lập nhiều chiến công xuất sắc, cùng với cả nước làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; đập tan âm mưu, cố gắng cao nhất của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Những năm đầu của kháng chiến chống Mỹ, trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền Mỹ và tay sai sau các đợt “tố cộng, diệt cộng”, lực lượng cách mạng Quảng Trị bị tổn thất nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh phải kịp thời chuyển hướng đấu tranh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Tháng 10-1957, Tỉnh ủy Quảng Trị mở hội nghị tại ngôi nhà số 55, phố Hàng Chuối, Hà Nội. Mặc vừa mới ở miền Nam ra Bắc với bao bộn bề, đồng chí vẫn trực tiếp đến dự hội nghị, thăm, động viên những người đồng chí, đồng đội của quê hương; đồng thời, trực tiếp truyền đạt Đề cương cách mạng miền Nam. Đồng chí thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại của phong trào, phân tích tình hình nhấn mạnh nhiệm vụ cụ thể trước mắt là: “Với địa bàn có tính đặc thù nhưng là một vị trí chiến lược quan trọng, để giữ tính chất “khu đệm”, không thể có những hoạt động vũ trang lớn như ở miền Nam. Đồng thời, để bảo vệ miền Bắc, Quảng Trị phải kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang một cách khôn khéo”. Đồng chí yêu cầu mỗi Tỉnh ủy viên, Huyện ủy viên phải về nơi mình am hiểu nhất để xây dựng cơ sở Đảng. Đồng chí dặn dò, phải luôn luôn đảm bảo nguyên tắc bí mật, chú trọng chất lượng, đặc biệt là phải tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Đồng chí truyền đạt kinh nghiệm vận động quần chúng cho toàn thể hội nghị. Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn là bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Quảng Trị. Sau hội nghị, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị được tiếp thêm sức mạnh mới, vững vàng vượt qua thử thách, phát huy cao độ truyền thống kiên cường, bất khuất, chủ động và sáng tạo phối hợp cùng các lực lượng chủ lực chiến đấu và chiến thắng, lập nhiều chiến công vang dội làm nức lòng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Trên cương vị là Bí thư thứ Nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã giành nhiều thời gian nghiên cứu vị trí chiến lược của Trị - Thiên, theo dõi sát sao diễn biến ở chiến trường để có những chỉ đạo sát đúng; thường xuyên gửi lời cổ vũ, động viên Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Linh, Quảng Trị vượt mọi gian khổ, hy sinh, lập nhiều chiến công hơn nữa, đóng góp xứng đáng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Khói lửa chiến tranh chưa tan, năm 1973, đồng chí về thăm quê hương, trên đất lửa Vĩnh Linh. Làm việc với Ban Thường vụ Khu ủy Vĩnh Linh và Mặt trận B5, đồng chí phân tích sâu sắc tình hình cách mạng miền Nam, khẳng định thắng lợi to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, biểu dương những thành tích to lớn mà quân và dân Vĩnh Linh đã giành được trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đồng chí còn giành nhiều thời gian gặp mặt đông đảo cán bộ, nhân dân địa phương, thăm hỏi, động viên toàn lực lượng hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại quê nhà.
Tình cảm, sự quan tâm, chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn đối với quê hương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước góp phần quan trọng để Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị phát huy cao độ truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, làm nên những chiến công vang dội, góp phần “Đánh cho Mỹ cút - Đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nước nhà thống nhất, giang sơn Tổ quốc nối liền một dải, trên cương vị là Tổng Bí thư của Đảng, mặc dù bận rộn với trăm nghìn công việc, đồng chí vẫn hướng về quê hương với bao trăn trở, lo lắng và tình cảm sâu nặng nhất. Đồng chí tâm tình: “Đối với tất cả chúng ta, quê hương biết bao tình sâu nghĩa nặng! Riêng tôi, ngoài công việc chung của cả nước, vẫn thường nghĩ đến tỉnh nhà và tự hỏi không biết đồng bào trong tỉnh từ ngày giải phóng đến nay sống như thế nào...” 1.
Ngày 23-3-1976, đồng chí về thăm quê hương. Với giọng nói Quảng Trị trầm ấm, nụ cười hiền hậu, đồng chí đã ôm vào lòng những đồng chí, đồng đội, bà con, anh em. Nước mắt hòa trong nước mắt, nụ cười hòa trong nụ cười, nhìn những gương mặt hao gầy vì chiến tranh, đồng chí bắt tay từng người, đến từng gia đình động viên thăm hỏi và không quên căn dặn bà con phải tích cực lao động sản xuất để ổn định cuộc sống, góp phần xây dựng quê hương. Đồng chí xúc động, không cầm được nước mắt trước cảnh nhà cửa đổ nát, ruộng vườn khô cháy, làng mạc bị chiến tranh tàn phá tiêu điều... Đồng chí cảm thấy đau buồn trước những hy sinh, mất mát của bà con trong kháng chiến, nay đã được giải phóng mà vẫn chưa đủ cơm ăn, áo mặc. Dù thời gian lưu lại rất ngắn ngủi nhưng đồng chí không quên thăm hỏi những gia đình đã từng nuôi dưỡng, chở che cách mạng, những gia đình thương binh, người già cả, neo đơn; xúc động chia sẻ và thăm hỏi với tấm lòng biết ơn và cảm phục trước sự hy sinh, mất mát của đồng bào, đồng chí trong hai cuộc kháng chiến. Đồng chí thường căn dặn các đồng chí lãnh đạo: “Bây giờ tất cả đều làm chủ chế độ mới, xây dựng nền kinh tế mới, phải đảm bảo đời sống mới của mọi người no đủ. Nếu có một gia đình nào đó không có áo mặc thì tôi không chịu và không cho phép làm chuyện đó. Nếu không có lòng ưu ái đối với những người nghèo khổ, không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội ấy thì chúng ta nói chủ nghĩa cộng sản, nói lý tưởng cách mạng chỉ là nói suông mà thôi”.
Lần về thăm làng Hậu Kiên vào dịp Tết Đinh Tỵ năm 1977, đồng chí vui mừng khi thấy những kết quả mà xã đạt được sau gần 2 năm giải phóng; thấy các cháu nhỏ hồng hào, khỏe mạnh, bà con đón Tết vui tươi. Ngắm nhìn ngôi nhà nhỏ vừa được địa phương dựng lại, chiếc giường mà lúc nhỏ đồng chí thường nằm và đọc sách, đồng chí xúc động trào nước mắt. Đồng chí nhắn nhủ bà con quê nhà: “Ngày xưa làng mình nghèo lắm, nhưng đồng bào rất thương nhau. Một gia đình có việc là cả xóm cùng giúp. Do nghèo và tình nghĩa đồng bào mà tôi ra đi làm cách mạng. Bây giờ hòa bình, độc lập rồi bà con cần phải thương yêu, đùm bọc nhau, tổ chức tốt các ngành nghề sản xuất để ai cũng có công ăn việc làm, đời sống ngày càng nâng cao”2
Đến thăm huyện miền núi Hướng Hóa, đồng chí vào tận thôn, bản để gặp bà con Vân Kiều, Pa Cô hỏi thăm, động viên bà con lao động sản xuất, xây dựng đời sống tiến bộ. Gặp, trao đổi với các đồng chí lãnh đạo huyện Hướng Hóa, đồng chí biểu dương, khen ngợi những đóng góp to lớn của Đảng bộ và nhân dân huyện Hướng Hóa trong hai cuộc kháng chiến; đồng thời, đồng chí nhấn mạnh: “Huyện ta rất giàu về tiềm lực, có điều kiện để phát triển kinh tế, tuy nhiên do chưa chú trọng khai thác đúng mức nên kết quả đưa lại chưa cao. Tiềm lực của người Hướng Hóa rất to lớn, đồng bào dân tộc ở đây có tinh thần yêu nước, nhiệt tình cách mạng, lao động cần cù và đoàn kết, thương yêu nhau. Nếu biết phát huy, khai thác những tiềm năng, thế mạnh đó thì tương lai không xa Hướng Hóa sẽ trở thành một huyện miền núi kiểu mẫu”. Nói chuyện với cán bộ và nhân dân thị xã Đông Hà, đồng chí quan tâm về công tác dân số, chỉ rõ đó là nhiệm vụ của từng người, từng gia đình và của cả xã hội. Làm tốt cuộc vận động này mới có thể nâng cao đời sống và thực sự giải phóng phụ nữ.
Về thăm quê hương, chứng kiến những cánh đồng khô hạn vì thiếu nước, đồng chí tự hỏi: “80% dân số Quảng Trị sống bằng nghề nông, trong lúc đó khí hậu quá khắc nghiệt, ruộng vườn lại thiếu nước sinh hoạt thì làm sao bà con đủ ăn?”. Từ ý tưởng đó, đồng chí đã chỉ đạo các bộ, ngành và các đơn vị liên quan xây dựng công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn. Những lần về thăm quê, đứng trên kênh dẫn nước của công trình, nhìn dòng nước mát đổ về cánh đồng Triệu Hải vốn khô hạn từ bao đời, cảm nhận cuộc sống tương lai no ấm, hạnh phúc của bà con quê hương, đồng chí không khỏi bồi hồi xúc động: “Lần này tôi về mừng nhất là làng ta có nước không đói nữa. Bây giờ có nước của công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn, ông bà chúng ta chưa bao giờ nghĩ ruộng đất đồng làng ta có nước đầy đủ như hiện nay. Hạnh phúc có rồi, dân ta cần cù nhất định làm nên giàu có”.
Đồng chí nhắc nhở Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà ra sức phát huy truyền thống bất khuất của quê hương, không cam chịu đói nghèo, tìm mọi cách đi lên từ đất đai, tiềm năng và lao động. Đồng chí chỉ rõ: “Đi đôi với phát triển nông nghiệp phải phát triển ngư nghiệp, lâm nghiệp thành những ngành quan trọng. Tổ chức và phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp, mở mang nhiều ngành nghề, không ngừng sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu. Mỗi làng, mỗi xã đều phải đi sâu vào khoa học – kỹ thuật để tăng năng suất lao động, ra sức học tập nâng cao trình độ văn hóa”.
Tháng 3-1985, lần cuối cùng về thăm quê, đồng chí đã gửi gắm nhiều tâm huyết với Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà, động viên, nhắc nhở mọi người phải phát huy hơn nữa những đức tính tốt đẹp của con người Quảng Trị, vươn lên trong phát triển kinh tế, làm chủ cuộc sống, xây dựng con người mới biết yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải.
Sự quan tâm của đồng chí Lê Duẩn đối với Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị không chỉ là tình cảm, là trách nhiệm của lãnh tụ đối với dân mà còn là những tình cảm chân thành của người con đối với đất mẹ, tình cảm của thế hệ người đi trước đối với lớp lớp con cháu. Hình ảnh đồng chí Lê Duẩn, những buổi gặp gỡ, chuyện trò chứa chan tình cảm giữa đồng chí với đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, những lời nói ấm áp, chân tình và những giọt nước mắt vui sướng của đồng chí, mãi mãi khắc sâu trong ký ức và tâm khảm của đồng bào, đồng chí quê hương Quảng Trị anh hùng.
Yêu quý, tự hào đồng chí Lê Duẩn, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Quảng Trị luôn giành cho đồng chí những tình cảm thắm thiết, đầy trân trọng, mộc mạc mà chân thành.
Thời kỳ đồng chí Lê Duẩn bị đày ở Côn Đảo lần thứ nhất, bọn giặc vây ráp, khủng bố, không cho gia đình làm ăn sinh sống. Thấy tình cảnh như vậy, dân làng kẻ ít người nhiều lén tiếp tế tiền và gạo qua máng nước, trên mái nhà, giúp gia đình đồng chí qua lúc gian nan. Trong những năm 1936 – 1939, nhân dân Quảng Trị che chở, bảo vệ an toàn cho đồng chí trước sự vây ráp, khủng bố khốc liệt của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Ông Đốc – người lái đò đã bất chấp tính mạng đưa đồng chí thoát khỏi vòng vây của quân thù; bà con quê hương đã tiếp tế từng củ sắn, củ khoai để đồng chí cầm cự qua ngày trong những lần kẻ thù truy lùng, vây ráp.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mặc dù không được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn nhưng Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị luôn quan tâm, dõi theo từng bước trưởng thành và những chiến công xuất sắc của đồng chí. Mỗi lần đồng chí vào Nam ra Bắc dừng chân tại chiến khu Ba Lòng, cán bộ và nhân dân Quảng Trị luôn chăm sóc chu đảo, tận tình, bảo đảm tuyệt đối an toàn cho đồng chí.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, mỗi lần biết tin đồng chí về thăm quê hương, bà con ai cũng háo hức chờ đợi để được gặp mặt; cán bộ chuẩn bị các công việc để báo cáo, sắp xếp nơi cho đồng chí nghỉ ngơi; các cháu học sinh háo hức chuẩn bị những bộ quần áo đẹp nhất; bà con, cô bác tìm những món ăn dân dã để đồng chí thưởng thức hương vị quê nhà. Những dịp đồng chí về quê, bà con, cô bác xóm giềng đều vây quanh, tay bắt, mặt mừng. Ai cũng muốn được ngồi gần để nghe đồng chí kể chuyện thời thơ ấu, kể về những năm tháng đấu tranh và trưởng thành trong nhà tù đế quốc; về những hy sinh gian khổ và vinh quang của người làm cách mạng.... Gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ, nhân dân, bao giờ đồng chí cũng hỏi lại: “Có ai còn hỏi gì nữa không?” thì liền nhận được câu hỏi quan tâm của bà con: “Thưa Bác, Bác có được khỏe không?”. Mỗi lần, đồng chí về thăm quê là mỗi lần Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà được tiếp thêm sức mạnh mới, phấn khởi, thi đua thực hiện bằng được những lời căn dặn của đồng chí, quyết tâm xây dựng Quảng Trị giàu đẹp, văn minh.
Ngày 10-7-1986, đồng chí Lê Duẩn giã từ cõi đời ở tuổi 79 trong niềm tiếc thương vô hạn của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Trị ai cũng lặng người vì xúc động, đau đớn, tiếc thương. Trong lễ viếng, cùng với đoàn đại biểu Quảng Trị, bà con, cô bác, các cháu thanh niên, thiếu niên, nhi đồng tập trung quanh ngôi nhà đồng chí; trước nén hương thơm và linh hồn của người con vĩ đại, ai cũng kính cẩn, nghiêng mình và thầm hứa với đồng chí phải quyết tâm làm nhiều, làm tốt hơn nữa để không phụ lòng mong ước của đồng chí.
Là người con ưu tú của quê hương, suốt cả cuộc đời, dù ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đối với Quảng Trị, đồng chí Lê Duẩn luôn giành tình cảm dạt dào, sâu nặng. Từ ngày Đảng bộ tỉnh còn trong trứng nước cho đến lúc trưởng thành, hay quê hương từng bước đổi mới hôm nay đều ghi đậm những dấu ấn về tình cảm cao đẹp và công lao xây đắp to lớn của đồng chí. Cuộc đời hoạt động cách mạng kiên cường và phong phú của đồng chí là tấm gương mẫu mực đối với mỗi một người con Quảng Trị.
Noi gương đồng chí, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân toàn tỉnh không ngừng kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, đoàn kết, nhất trí, lao động, sáng tạo để từng bước tranh thủ thời cơ, vượt lên khó khăn, thách thức, xây dựng tỉnh nhà ngày càng đẹp đẽ, khang trang, vững bước đi lên trên con đường đổi mới và hội nhập. Đó chính là tình cảm, sự tri ân xứng đáng của các thế hệ Quảng Trị hôm nay và mai sau đối với người con ưu tú của quê hương, đất nước – Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn. Ngọc Tuấn-Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
1 Gồm các đồng chí Lê Duẩn, Hồ Xuân Lưu (Trần Quốc Thảo), Trần Mạnh Qùi, Nguyễn Hữu Khiếu.
1 Bảy đồng chí gồm: Trần Mạnh Qùi, Hoàng Thị Ái, Hồ Xuân Lưu (Trần Quốc Thảo), Nguyễn Mực, Nguyễn Vực, Hoàng Hữu Chấp và Dương Đậu.
1 Tỉnh ủy Quảng Trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Lê Duẩn với cách mạng Việt Nam và quê hương Quảng Trị, NXB. Chính trị quốc gia, năm 2002, tr. 387.
2 Tỉnh ủy Quảng Trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Lê Duẩn với cách mạng Việt Nam và quê hương Quảng Trị, NXB. Chính trị quốc gia, năm 2002, tr. 452.