|
Ảnh minh họa |
Bộ Nội vụ cho biết, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC), người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đã được Chính phủ quy định tại 3 Nghị định gồm: 116/2010/NĐ-CP; 61/2006/NĐ-CP và 64/2009/NĐ-CP.
Việc thực hiện các chính sách quy định tại 3 Nghị định nêu trên đã đạt được những kết quả tích cực, thu hút và tạo điều kiện tốt hơn cho đội ngũ CBCCVC, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, góp phần khuyến khích, động viên đối tượng yên tâm công tác lâu dài ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng đã phát sinh vướng mắc cần được khắc phục như: Quy định cùng một chính sách ở nhiều Nghị định khác nhau; việc hướng dẫn về địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và quy định đối tượng hưởng chính sách còn chưa cụ thể… Do đó, để khắc phục những vướng mắc nêu trên thì việc trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách đối với CBCCVC, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để thay thế chính sách đối với người công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tại 3 Nghị định nêu trên là cần thiết.
Những nội dung mới sửa đổi, bổ sung
Để tránh trùng lặp trong việc hưởng chế độ, chính sách, Điều 1 dự thảo Nghị định quy định rõ các xã có điều kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách quy định tại Nghị định này là xã khu vực III thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi và thôn đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, không bao gồm các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo và các xã thuộc các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ vì các xã này đã được hưởng chính sách của Chương trình 135 giai đoạn III (Quy định tại Quyết định số 1722/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020).
Bên cạnh đó, Điều 13 dự thảo Nghị định bổ sung quy định về việc xác định thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để làm căn cứ tính hưởng các chế độ phụ cấp, trợ cấp.
Cụ thể, tính theo tháng: Trường hợp có từ 50% trở lên thời gian trong tháng thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn theo chế độ làm việc do cơ quan có thẩm quyền quy định thì được tính cả tháng; trường hợp có dưới 50% thời gian trong tháng thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì không tính.
Đối với nhà giáo đạt từ 50% định mức giờ giảng trong tháng trở lên thì được tính cả tháng.
Trường hợp tính theo năm: Dưới 3 tháng thì không tính; từ đủ 3 tháng đến đủ 6 tháng thì được tính bằng ½ năm công tác. Từ trên 6 tháng thì được tính bằng 1 năm công tác.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Khánh Linh