Đảm bảo an ninh, an toàn cho thanh toán điện tử trong kỷ nguyên số 

(ĐCSVN) - Trong ứng dụng công nghệ, như chúng ta đã nói rất nhiều về lợi ích của chuyển đổi số (CĐS) và người dân được hưởng lợi, ngân hàng được hưởng lợi, xã hội có những thay đổi tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong quá trình CĐS chúng ta cũng sẽ phải đối diện với một số rủi ro, thách thức.

 

 Hình ảnh tại buổi Tọa đàm. (Ảnh: M.P)

Đó là nhận định của ông Phạm Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tại Toạ đàm trực tuyến “Đảm bảo an ninh, an toàn cho thanh toán điện tử trong kỷ nguyên số” do Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ dưới sự chỉ đạo của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức hôm nay (21/8) tại Hà Nội.

Theo ông Phạm Anh Tuấn, CĐS là xu thế tất yếu. Rất nhiều  tổ chức tín dụng (TCTD) đã đạt được số lượng giao dịch trên kênh số lên tới 90%. Điều đó giúp các TCTD giảm thiểu nhiều chi phí so với thực hiện các giao dịch truyền thống trước đây. CĐS góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, các hình thức thanh toán số đều hướng tới mục tiêu Quyết định 1813 của Thủ tướng Chính phủ (phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2021-2025). Trong đó, làm sao để đến năm 2025, Việt Nam đạt khoảng 80% người trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) có tài khoản ngân hàng. Đây là một trong những mục tiêu NHNN đang tích cực hướng tới.

Đồng thời, ông Tuấn nhấn mạnh, việc thúc đẩy sử dụng dịch vụ số giúp người dân tránh được các dịch vụ chuyển tiền bất hợp pháp, cho vay nặng lãi… Trong đó, hình thức cho vay bằng phương thức điện tử giúp cho việc phổ cập tài chính đến người dân vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo… Chính phủ cũng thông qua 1 loạt các biện pháp như Mobile Money để góp phần thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) không chỉ ở thành thị mà còn phổ cập đến vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… Sau 1 năm triển khai, Mobile Money đã có khoảng trên 4 triệu người dùng và con số này đang có chiều hướng tăng dần, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, nơi các TCTD, các trung gian thanh toán cũng chưa đặt chân đến nhiều mà chủ yếu phát triển thông qua các mô hình đại lý hoặc điểm kinh doanh do các nhà mạng viễn thông triển khai. Việc này cũng góp phần thúc đẩy quá trình CĐS tại Việt Nam trong thời gian qua.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng đánh giá, ngành Ngân hàng là một trong những ngành tiên phong, đi đầu trong quá trình CĐS với mục tiêu lấy người dân làm trung tâm. Vì vậy, công tác CĐS của ngành Ngân hàng trong thời gian vừa qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm 2020 là thời điểm hết sức khó khăn do đại dịch COVID-19, giao tiếp xã hội bị hạn chế nhưng mọi hoạt động giao dịch thanh toán đều diễn ra một cách an toàn.

Ông Hùng cho biết, giai đoạn 2020 – 2025 càng minh chứng cho sự chuyển động lớn về giao dịch thanh toán. Nếu như trước năm 2016, khoảng 500 – 1.000.000 giao dịch/ngày là một con số mơ ước của các TCTD, nhưng đến nay, lượng giao dịch bình quân 1 ngày lên tới 8 triệu giao dịch, với số lượng giao dịch bằng tiền mặt khoảng 900.000 tỷ đồng (tương đương 40 tỷ USD). Với lượng thanh toán lớn hàng ngày như vậy, CĐS là hết sức quan trọng và thiết thực. Đối với ngành Ngân hàng, đây là sự chuyển đổi vượt bậc, đặc biệt khi đại dịch COVID-19 xảy ra.

Tính đến tháng 6/2023, lượng tiền giao dịch thanh toán chuyển khoản bình quân tăng 52,35% so với năm 2022. Lượng thanh toán thông qua POS, mã QR, internet và Mobile Banking tăng cả về giá trị lẫn số lượng. Trong khi đó, lượng rút tiền mặt qua ATM giảm khoảng 6,3%. Có thể thấy, CĐS có thể giúp hạn chế sử dụng tiền mặt và thúc đẩy về thanh toán một cách nhanh nhất, tiện lợi nhất.

Ngoài ra, khoảng 40 ngân hàng đã mở tài khoản thanh toán cho khách hàng với khoảng 11 triệu tài khoản thông qua phương thức eKYC (định danh khách hàng điện tử); khoảng 20 ngân hàng mở tài khoản thanh toán thẻ đối với khách hàng thông qua eKYC với số lượng 10,8 triệu. Đây là một trong những kết quả tích cực trong lĩnh vực thanh toán thẻ.

Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả , lợi ích tích cực của CĐS, ông Phạm Anh Tuấn chỉ ra 4 nhóm khó khăn, thách thức chính đối với an toàn, an ninh trong lĩnh vực chuyển đổi số ngành ngân hàng

Thứ nhất, hành lang pháp lý chưa theo kịp sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Nhiều sản phẩm dịch vụ áp dụng hình thức công nghệ tiên tiến hiện đại nhưng chưa có đủ văn bản quy phạm pháp luật hay hành lang pháp lý chưa theo kịp, dẫn đến việc vận dụng cũng như ứng xử gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, tội phạm gia tăng ở mức độ cao so với nhiều năm.

Thứ ba, thiếu tương thích giữa các hạ tầng. “Có thể nói, hiện nay, ngân hàng sử dụng dữ liệu của ngân hàng, cơ quan công an sử dụng dữ liệu của cơ quan công an (ngoại trừ Đề án 06 đang bước đầu triển khai), nhà mạng viễn thông cũng sử dụng dữ liệu riêng, không khai thác được. Nếu như các cơ sở hạ tầng dữ liệu này tương thích và được tích hợp, kết nối thì trong trường hợp khách hàng mở tài khoản, đăng ký số điện thoại, sử dụng Mobile Banking thì ngân hàng có thể kiểm tra được số điện thoại chính chủ và người thực hiện có chính xác hay không” – ông nói.

Hiện nay, các hạ tầng này đang từng bước để tiến đến kết hợp được với nhau để xây dựng hệ sinh thái chung và khai thác hiệu quả, góp phần phòng chống gian lận lừa đảo.

Thứ tư, vấn đề con người. Tâm lý, thói quen tiêu dùng tiền mặt của người dân ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo vẫn còn lớn. Kỹ năng sử dụng các dịch vụ ngân hàng số của người dân còn nhiều hạn chế đã góp phần tiếp tay cho các đối tượng lừa đảo, gian lận. Kẻ gian thông qua sự thiếu hiểu biết, kỹ năng sử dụng dịch vụ ngân hàng số chưa tốt của khách hàng để khai thác và qua đó thực hiện các hành vi gian lận.

Chính vì vậy, ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, để CĐS được toàn diện hơn trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng và toàn xã hội nói chung, tôi cho rằng, đầu tiên là hành lang pháp lý phải đầy đủ. Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024, đây sẽ là cơ sở để NHNN Việt Nam, các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp có chiến lược, bước đi phù hợp với luật. Trên cơ sở đó, Chính phủ, các bộ, ngành sẽ ban hành ra những chính sách, cơ chế sao cho phù hợp với sự phát triển của thị trường nói chung, của các tổ chức tín dụng nói riêng.

Cùng với đó, CĐS cần được thực hiện toàn diện (thanh toán, cho vay, bảo lãnh, lưu trữ hồ sơ, quản trị….), muốn như vậy thì hành lang pháp lý cần đầy đủ.

Bên cạnh đó, để đảm bảo an toàn, ngoài cơ chế chính sách, thì một vấn đề hết sức quan trọng đó là phổ cập tài chính toàn diện đến tất cả người dân, phổ cập CĐS đến mọi người dân. NHNN và các ngân hàng thương mại cũng đã có rất nhiều hình thức truyền thông, tuy nhiên, mức độ hiểu biết, ý thức sử dụng của người dân về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng vẫn còn hạn chế. Đây cũng là một nội dung Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng đang chuẩn bị làm. Hiệp hội Ngân hàng sẽ đẩy mạnh truyền thông về tài chính và cảnh báo rủi ro trên các nền tảng chính thức và nền tảng mạng xã hội.

Ngoài ra, liên quan đến chính các tổ chức tín dụng, ông Hùng cũng cho rằng các tổ chức tín dụng cũng nên chủ động cảnh báo các thủ đoạn của các đối tượng lừa đảo bằng các hình thức dán thông báo ở các trụ sở, các chi nhánh, phòng giao dịch… để mọi người dân được biết và tránh được những rủi ro mất thông tin, mất tiền…./.

 

 

 
Minh Phương
250 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 1090
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 1090
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87194357