|
Ảnh minh hoạ. |
Ngày 8/3/2018, Việt Nam cùng 10 đối tác khác ở hai bờ Thái Bình Dương đã ký Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đây được xem như lựa chọn không thể tốt hơn cho khối các nước thành viên còn lại của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sau khi Hoa Kỳ quyết định rút khỏi Hiệp định này.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh phải chờ đợi tương lai bất định của TPP, CPTPP cho phép chúng ta có thêm 3 FTA mới với Canada, Mexico, Peru và 7 FTA nâng cấp với các đối tác còn lại.
Bằng bước đi CPTPP này, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tiến trình hội nhập sâu hơn với các thị trường ưu tiên, đặc biệt là mở ra cho chúng ta những cánh cửa quan trọng vào thị trường châu Mỹ đầy tiềm năng.
Mặc dù vậy, cho đến hiện tại, CPTPP không có Hoa Kỳ, nhiều vấn đề đã thay đổi so với TPP mà chúng ta biết trước kia. Sự thay đổi này, tất nhiên không phải chỉ ở những quy định về điều kiện có hiệu lực của Hiệp định hay ở một nhóm nhỏ khoảng 20 cam kết tạm hoãn thực thi.
Trong TPP, chúng ta nói nhiều tới cơ hội xuất khẩu của ngành dệt may, giày dép, nông sản ở thị trường lớn Hoa Kỳ. Trong CPTPP, những cái tên tiềm năng khác lại được nêu hàng đầu, như thực phẩm, đồ uống, thuốc lá…
Trong các lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, mua sắm công…, mặc dù thay đổi có thể không lớn như trong xuất khẩu, nhưng cũng là đáng kể.
Việc phổ biến tuyên truyền các nội dung cam kết của CPTPP, cùng với những tác động và thay đổi của CPTPP trong bối cảnh mới là rất cần thiết để các doanh nghiệp hoạch định tốt hơn mục tiêu kinh doanh của mình ở và với các thị trường.
Từ góc độ thể chế, chúng ta cũng biết CPTPP đã tạm hoãn một số nghĩa vụ phức tạp trong TPP (đặc biệt trong một số khía cạnh về sở hữu trí tuệ, tranh chấp Nhà nước – nhà đầu tư nước ngoài…). Điều này chắc chắn sẽ giúp Việt Nam và các nước có thêm thời gian điều chỉnh và thích ứng ở các lĩnh vực liên quan. Tuy vậy, trong tổng thể, những đòi hỏi về cải cách thể chế từ CPTPP – một Hiệp định “toàn diện” và “tiến bộ” - hầu như không bị ảnh hưởng. Áp lực cho việc sửa đổi, cải cách thể chế kinh tế đối với Việt Nam cũng không đổi.
Không phải không có ý kiến quan ngại về việc các lợi ích xuất khẩu giảm sút có thể làm giảm sút động lực để cải cách và thay đổi. Tin mừng là động lực của cải cách thể chế từ CPTPP có thể từ chính các lợi ích mà cải cách thể chế mang lại, nhóm lợi ích được đánh giá là lớn nhiều lợi ích thuế quan. Theo một nghiên cứu của Nhật Bản, đối với trường hợp của Việt Nam, những lợi ích từ thuế quan trong CPTPP chỉ giúp GDP của chúng ta tăng 1,1%, chưa bằng 1/6 lợi ích mà TPP hứa hẹn; nhưng lợi ích từ cải cách thể chế (mà chỉ xét về các hàng rào phi thuế) mà CPTPP mang lại cho GDP Việt Nam gần như bằng với TPP, giúp GDP tăng khoảng 10%.
Vấn đề đặt ra với tất cả chúng ta là làm sao cải cách thể chế kinh tế theo yêu cầu của CPTPP cộng hưởng với những cải cách môi trường kinh doanh mà Chính phủ đang thúc đẩy. Làm sao để cả các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp cùng vào cuộc, để cả hệ thống cải cách một cách thực chất, toàn diện và hiệu quả. CPTPP là cơ hội, cũng là sức ép, là tiêu chuẩn để chúng ta cải cách vì lợi ích và nhu cầu của chính mình.
Thách thức trong thực thi CPTPP, vì vậy không hề nhỏ hơn so với thực thi TPP, và tất nhiên là lớn hơn nhiều so với các Hiệp định thương mại tự do trước đây.
Với các doanh nghiệp, đó trước hết là thách thức trong việc tận dụng các cơ hội từ CPTPP. Quá trình thực hiện các Hiệp định thương mại tự do đang có của chúng ta cho thấy khá rõ điều này. Đơn cử như tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan trung bình của các Hiệp định hiện chỉ xấp xỉ 30-40%, đó là chưa kể tới thực tế là trong số tận dụng được đó, rất ít các doanh nghiệp không có vốn đầu tư nước ngoài. Thách thức lớn hơn, riêng có của CPTPP, là thách thức mà ở đó doanh nghiệp phải chủ động tham gia cùng các cơ quan Nhà nước kiến tạo hệ thống thể chế pháp luật về môi trường kinh doanh sao cho vừa tuân thủ CPTPP, vừa tận dụng được không gian chính sách còn lại để phục vụ tốt nhất lợi ích của doanh nghiệp trong nước.
Trong một chừng mực nhất định, thách thức này cũng đặt ra đối với các cơ quan Nhà nước liên quan: phải có quyết tâm tổ chức thực thi thuận lợi và thông suốt, để doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các cơ hội thị trường; và phải minh bạch, tham vấn cùng doanh nghiệp trong quá trình rà soát pháp luật, nội luật hóa và thực thi các cam kết CPTPP một cách thích hợp.
Với vai trò là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, trong quá trình đàm phán TPP hơn 5 năm và sau đó là một năm đàm phán CPTPP, VCCI đã là đầu mối tích cực và hiệu quả để thông tin cho doanh nghiệp cũng tập hợp ý kiến doanh nghiệp, xây dựng các khuyến nghị với Đảng, Nhà nước và Đoàn đàm phán các phương án đàm phán thích hợp.
Trong quá trình thực thi CPTPP, VCCI cam kết sẽ tiếp tục là đầu mối cho các nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu các cam kết và tận dụng hiệu quả các cơ hội từ CPTPP, chuẩn bị và xử lý thích hợp những thách thức từ Hiệp định này.
TS Vũ Tiến Lộc,
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam