Công tác Văn phòng cấp uỷ sau 24 năm thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW của Ban Bí thư khoá VII về tăng cường chỉ đạo công tác Văn phòng Tỉnh uỷ 

Quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW, ngày 8/4/1993, của Ban Bí thư, trong điều kiện tỉnh mới lập lại hơn 4 năm, còn nhiều khó khăn trong việc ổn định tổ chức bộ máy các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh uỷ nhưng Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã rất quan tâm đến công tác văn phòng cấp uỷ; kịp thời ban hành Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 20/9/1993 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của văn phòng tỉnh uỷ, làm căn cứ pháp lý để Văn phòng Tỉnh uỷ thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức quán triệt Chỉ thị 17-CT/TW đến các cấp uỷ trực thuộc tỉnh uỷ, MTTQ, các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh, đồng thời ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về nâng cao chất lượng công tác văn phòng cấp uỷ, đưa công tác văn phòng ngày càng đi vào quy chuẩn, nền nếp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

        Ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW

        Trong quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW của Ban Bí thư từ năm 1993 đến nay, trải qua nhiều giai đoạn gắn với trọng tâm công tác,nhiệm vụ chủ yếu và tổ chức bộ máy có khác nhau, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã kịp thời ban hành các quy chế, quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của văn phòng tỉnh uỷ và các văn bản có nội dung liên quan đến công tác văn phòng, tạo điều kiện cho công tác văn phòng được thực hiện theo đúng quy định.    Cụ thể là:

        Nhiệm kỳ 1990-1995: Ban hành Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 20/9/1993, về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của văn phòng tỉnh uỷ; Quyết định số 48-QĐ/TU, ngày 13/9/1995 thành lập Kho Lưu trữ Tỉnh ủy (nay là Phòng Lưu trữ).

Nhiệm kỳ 1995-2000: Phê duyệt Quy chế làm việc số 01-QĐ/TU, ngày 19/6/1996, của Văn phòng Tỉnh uỷ; ban hành Quy định số 215-QĐ/TU, ngày 24/4/1998, về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của Văn phòng Tỉnh uỷ. Ban hành Quy chế 02-QC/TU, ngày 31/3/1999, về chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Tỉnh uỷ.

        Nhiệm kỳ 2000-2005: Ban hành Quy định số 61-QĐ/TU, ngày 28/9/2001, về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ công tác của văn phòng tỉnh uỷ; Quy định 01, 02 -QĐ/TU, ngày 19/7/2003, về mối quan hệ công tác giữa Văn phòng Tỉnh uỷ và các cơ quan Nội chính tỉnh, về mối quan hệ công tác giữa các huyện uỷ, thị uỷ trong lĩnh vực nội chính.

         Nhiệm kỳ 2005-2010: Trên cơ sở Quy định 222-QĐ/TW, ngày 8/5/2009, của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Văn phòng Tỉnh uỷ xây dựng Quy chế làm việc của Văn phòng và các phòng trực thuộc Văn phòng Tỉnh uỷ. Chỉ đạo xây dựng Đề án về Quy trình xử lý văn bản trong cơ quan Tỉnh uỷ.

         Nhiệm kỳ 2010-2015 và từ năm 2015 đến nay: Chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Truyền thống Văn phòng Tỉnh uỷ giai đoạn 1930-2014. Ban hành Quy chế phối hợp giữa Văn phòng Tỉnh uỷ với Văn phòng UBND tỉnh, Văn phòng HĐND tỉnh và Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh. Ban hành Kế hoạch triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng tỉnh giai đoạn 2015 - 2020; thành lập Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị. Ban hành Quy định số 16-QĐ/TU, ngày 23/8/2010 về một số chế độ chi xây dựng, thẩm định văn bản; Quy định số 464-QĐ/TU, ngày 7/3/2017, về việc gửi nhận văn bản và thư điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Đảng bộ tỉnh.

        Chỉ đạo xây dựng Đề án và các Quy định, Quy chế về: Quan hệ phối hợp giữa Văn phòng Tỉnh uỷ với các Ban Đảng Tỉnh uỷ, Quy trình tổ chức, phục vụ Hội nghị Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh uỷ; Quy định về thời gian xử lý, giải quyết các kiến nghị, đề xuất của tổ chức, cá nhân gửi đến Thường trực Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh uỷ; Quy trình xử lý đơn thư gửi đến Thường trực Tỉnh uỷ. Chỉ đạo Văn phòng Tỉnh uỷ ban bành các Quy trình về đón tiếp khách, về phục vụ Hội nghị, về quản lý và sử dụng điện, nước. Chỉ đạo Văn phòng Tỉnh uỷ xây dựng Đề án vị trí việc làm và Bộ Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức của Văn phòng Tỉnh uỷ.

         Trong quá trình lãnh đạo, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thường trực Tỉnh uỷ luôn quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt để Văn phòng Tỉnh uỷ hoạt động có hiệu quả. Hàng năm, vào đầu năm, Thường trực Tỉnh uỷ đều tổ chức làm việc với tập thể lãnh đạo Văn phòng Tỉnh uỷ nghe đánh giá kết quả hoạt động của Văn phòng, định hướng các nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai thực hiện trong năm tiếp theo; ngoài ra, định kỳ hàng quý hoặc khi cần thiết, Thường trực Tỉnh uỷ đều có các phiên làm việc để chỉ đạo trực tiếp các hoạt động của Văn phòng Tỉnh uỷ.

         Kết quả thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW trên các mặt công tác văn phòng

         Với chức năng là cơ quan tham mưu, tổng hợp, giúp việc Tỉnh ủy, trực tiếp là Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy trong tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; phối hợp hoạt động của các cơ quan tham mưu; tham mưu đề xuất chủ trương, chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và đối ngoại của cấp ủy; nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính, tài sản của Đảng bộ tỉnh; trực tiếp quản lý tài sản, tài chính của Tỉnh ủy, bảo đảm hậu cần cho hoạt động của cấp ủy; là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo của cấp ủy, Văn phòng Tỉnh ủy đã phát huy tốt việc giúp cấp uỷ, tổ chức sự làm việc theo đúng chương trình, kế hoạch công tác của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành và của Thường trực cấp uỷ. Chất lượng chương trình làm việc của cấp uỷ được nâng lên, khoa học hơn. Sau các kỳ Đại hội Đảng, Văn phòng đã kịp thời tham mưu giúp cấp uỷ ban hành các quy chế làm việc của BCH, Ban Thường vụ, Thường trực cấp uỷ. Xây dựng bổ sung chức năng nhiệm vụ, quy chế làm việc và tích cực cải tiến lề lối làm việc. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành trong công tác tham mưu, phục vụ sự chỉ đạo của cấp uỷ. Các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, các sở, ban, ngành... đã đánh giá cao và phối hợp nhịp nhàng với Văn phòng Tỉnh ủy để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Công tác tham mưu, tổng hợp có nhiều chuyển biến tiến bộ. Văn phòng Tỉnh ủy đã phối hợp chặt chẽ với các Ban đảng Tỉnh uỷ và các cơ quan liên quan tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chương trình công tác của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy. Nội dung chương trình công tác năm, hàng tháng, lịch làm việc tuần của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã bám sát chương trình công tác toàn khóa của Ban Chấp hành, các chủ trương, chỉ đạo mới của Trung ương; vừa đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện trên các lĩnh vực, vừa tập trung vào các nội dung trọng tâm trọng điểm trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, giải quyết kịp thời các vấn đề đột xuất, nảy sinh, đồng thời phát huy vai trò quản lý, điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, phát huy vai trò làm chủ, kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức tốt việc phối hợp hoạt động với các ban đảng, các ngành, các cấp nhằm thực hiện tốt chương trình công tác đề ra.

         Văn phòng Tỉnh ủy đã tham mưu Thường trực Tỉnh ủy thực hiện nền nếp giao ban hàng quý với các Ban Đảng, Văn phòng Tỉnh uỷ; phối hợp tổ chức giao ban với cơ quan trong Khối Nội chính tỉnh, với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh; tham mưu và tổ chức chương trình làm việc của đồng chí Bí thư, các Phó Bí thư Tỉnh ủy tại các địa phương, đơn vị.

         Quy chế làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ được thực hiện nghiêm túc. Một số nội dung quy chế được Văn phòng Tỉnh ủy phối hợp với các đơn vị tham mưu bổ sung, điều chỉnh kịp thời theo chủ trương của Trung ương, của tỉnh.

        Trong quá trình thực hiện, Văn phòng Tỉnh ủy thường xuyên đối chiếu quy chế, tham mưu kịp thời, chính xác để Thường trực, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành thực hiện đúng thẩm quyền, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo. Các vấn đề về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là những việc đột xuất, nảy sinh do các ngành, các cấp trình đều được Văn phòng Tỉnh ủy thẩm định và đề xuất xem xét, quyết định đúng thẩm quyền. Nguyên tắc tập trung dân chủ và các chế độ công tác của tập thể, cá nhân được đảm bảo. Khâu nối, phối hợp chuẩn bị tốt nội dung các kỳ họp Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các cuộc làm việc của Thường trực Tỉnh ủy. Thẩm định, biên tập, phát hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy đảm bảo thời gian và chất lượng.

          Công tác tham mưu tổ chức phục vụ hội nghị Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các cuộc làm việc tập thể của Thường trực Tỉnh ủy được thực hiện tốt. Căn cứ chương trình công tác, lịch làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy, các chuyến thăm, làm việc của Ban Thường vụ, Thường trực, các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư với các địa phương, đơn vị, Văn phòng tham mưu đề xuất về nội dung, thành phần, thời gian hội nghị trình Thường trực Tỉnh ủy; phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị nội dung chương trình, đề án phục vụ kỳ họp, các cuộc làm việc. Các nội dung, chương trình, đề án trước khi trình kỳ họp Ban Thường vụ, Ban Chấp hành được Văn phòng Tỉnh ủy theo dõi, đôn đốc, bảo đảm về quy trình, phạm vi, thể thức, thể loại và thẩm quyền ban hành. Chương trình, nội dung đưa vào các kỳ họp hợp lý, phù hợp với thời gian của kỳ họp. Tài liệu kèm với báo cáo, tờ trình được gửi cho các thành phần dự họp theo quy định. Thời gian họp 01 kỳ từ 01 buổi đến 02 ngày; số nội dung giải quyết trong kỳ họp nhiều nhất là 6 nội dung, ít nhất là 01 nội dung. Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức mỗi tháng 1-2 lần; Hội nghị Ban Chấp hành được tổ chức họp vào cuối quý; các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ dự các kỳ họp đầy đủ, tích cực tham gia phát biểu xây dựng nội dung kỳ họp; các nội dung thảo luận và kết luận đều thống nhất cao. Đặc biệt, Thường trực Tỉnh ủy duy trì nghiêm chế độ sinh hoạt tập thể, mỗi tháng tổ chức 2 đến 3 phiên họp Thường trực để cho ý kiến vào các nội dung thuộc thẩm quyền. Sau hội nghị, các nội dung làm việc và ý kiến chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, các đề xuất, kiến nghị của các ngành, các cấp được Văn phòng văn bản hóa biên bản kỳ họp, ban hành thông báo và tham mưu xử lý kịp thời, đảm bảo chất lượng.

         Trong từng nhiệm kỳ, nhất là các nhiệm kỳ gần đây, Văn phòng Tỉnh uỷ đã khâu nối, tham mưu, phục vụ tốt trên 20 kỳ họp định kỳ và kỳ họp bất thường của BCH Đảng bộ tỉnh; tham mưu, phục vụ bình quân mỗi năm 50-70 hội nghị, phiên làm việc, phiên họp của Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh uỷ; phối hợp tham mưu thực hiện có nề nếp các hội nghị giao ban quý, năm của các Ban Đảng và Văn phòng Tỉnh uỷ; Mặt trận và các đoàn thể, hội quần chúng cấp tỉnh; công tác nội chính. Chủ trì chuẩn bị nội dung, chương trình, phục vụ chu đáo các chuyến làm việc của đồng chí Bí thư, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ với các địa phương, đơn vị, cơ sở; tiếp khách quốc tế, khách tỉnh bạn và tổ chức các sự kiện, ngày kỷ niệm, các cuộc gặp mặt nhân dịp lễ tết... Văn phòng Tỉnh uỷ cũng đã tham mưu, giúp cấp uỷ chuẩn bị chu đáo các điều kiện, cả nội dung lẫn vật chất, hậu cần để tổ chức thành công các kỳ đại hội đảng bộ tỉnh.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Văn phòng Tỉnh uỷ đã có nhiều cố gắng trong việc theo dõi, đôn đốc, tham gia chuẩn bị các đề án và thẩm định về yêu cầu, phạm vi, quy trình, tiến độ chuẩn bị và thể thức văn bản của đề án trình cấp uỷ. Các loại văn bản do Văn phòng Tỉnh ủy trực tiếp soạn thảo được giao cho bộ phận tham mưu tổng hợp, cán bộ nghiệp vụ có trình độ chuyên sâu, phân công theo lĩnh vực, thực hiện công phu, đảm bảo nội dung, thời gian yêu cầu. Các loại văn bản giao Văn phòng Tỉnh ủy thẩm định, biên tập được thực hiện đúng quy trình, đúng thể thức, thể loại và thẩm quyền ban hành văn bản. Nhìn chung, chất lượng thẩm định, biên tập, soạn thảo văn bản ngày càng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Hầu hết các loại văn bản của Thường trực, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành do các ban xây dựng Đảng, các ngành, các cấp trình đều được Văn phòng Tỉnh ủy rà soát, thẩm định trước khi ban hành. Tham gia, phối hợp với các ban đảng, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và các cơ quan chuyên môn của UBND, HĐND biên tập văn kiện đại hội đảng bộ tỉnh; tổng hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân tham gia vào các văn kiện đại hội đảng các cấp; xây dựng một số đề án, chương trình hành động, sơ, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

        Văn phòng Tỉnh ủy thường xuyên rà soát và tham mưu Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo thực hiện tốt việc quán triệt các chủ trương, sơ kết, tổng kết nghị quyết, chỉ thị của Đảng đúng tiến độ thời gian và nội dung chương trình đề ra. Các báo cáo sơ, tổng kết gửi Trung ương được tham mưu kịp thời. Đồng thời phối hợp chuẩn bị tốt các hội nghị quán triệt, sơ tổng kết; sau hội nghị tham mưu thông báo kết luận của cấp ủy để chỉ đạo thực hiện.

Chất lượng thẩm định, biên tập, soạn thảo văn bản ngày càng được nâng lên. Trong nhiệm kỳ 2000 - 2005: tham gia xây dựng, soạn thảo để cấp uỷ ban hành 13 nghị quyết chuyên đề, 16 chỉ thị, 7 chương trình hành động, 5 Kết luận; nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã tham gia xây dựng, soạn thảo để cấp uỷ ban hành 12 nghị quyết, 21 chỉ thị, 18 chương trình hành động, 14 kết luận; nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã tham gia xây dựng, soạn thảo để cấp uỷ ban hành 3 nghị quyết, 19 chỉ thị, 21 chương trình hành động, 9 kết luận; mỗi năm ban hành hàng trăm thông báo kết luận, kế hoạch, báo cáo định kỳ, đột xuất và các văn bản quan trọng khác của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ... Qua thực tiễn cho thấy các nghị quyết, chương trình hành động và các văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đề ra là đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của cấp trên và phù hợp với thực tiễn ở địa phương.

         Văn phòng Tỉnh ủy thường xuyên chú trọng công tác thông tin phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, Ban Thường vụ và chế độ gửi báo cáo theo quy định của Trung ương. Văn phòng Tỉnh ủy thực hiện tốt chế độ báo cáo hàng tháng, quý, 6 tháng, năm, bản tin tuần, báo cáo những công việc đã được Ban Thường vụ, Thường trực cấp ủy giải quyết giữa 2 kỳ họp của Ban chấp hành. Ngoài báo cáo định kỳ còn có báo cáo trước, trong, sau tết Nguyên đán, báo cáo đột xuất về tình hình thiên tai dịch bệnh và một số báo cáo chuyên đề khác. Thường xuyên nắm thông tin cơ sở, tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác nội chính, công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh. Hệ thống công nghệ thông tin được triển khai từ cấp tỉnh đến cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho Văn phòng Tỉnh ủy khai thác ứng dụng, góp phần nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo. Nhiều văn phòng cấp huyện, cấp xã đã kết nối internet, kết nối mạng cơ quan đảng với chính quyền làm nguồn thông tin thêm phong phú, phục vụ tốt sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy.

        Văn phòng Tỉnh ủy thực hiện tốt chế độ báo cáo theo Quy định 251-QĐ/TW ngày 31/7/2009 của Ban Bí thư. Hầu hết các loại báo cáo đều gửi Ban Bí thư, Văn phòng Trung ương, Vụ địa phương tại Đà Nẵng, các huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc và các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Các nguồn thông tin tài liệu gửi đến Văn phòng được Văn phòng chọn lọc, xử lý, biên tập đảm bảo tính chính xác, trung thực, khách quan, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy. Hầu hết các văn phòng cấp ủy thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo. Những thông tin được tiếp nhận từ Trung ương được xử lý kịp thời, sao gửi đúng đối tượng, quản lý chặt chẽ, bảo mật thông tin theo quy định.

Với phương pháp nắm thông tin bằng nhiều kênh, phối hợp chặt chẽ nhiều lực lượng, ứng dụng có hiệu quả hệ thống mạng thông tin diện rộng và nội bộ, đề cao trách nhiệm đội ngũ tham mưu, Văn phòng Tỉnh uỷ đã thực hiện tốt vai trò là trung tâm thông tin tổng hợp, chủ động trong công tác phối hợp, điều hoà chương trình công tác của Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh uỷ để tham mưu, phục vụ cấp uỷ; khâu nối, xử lý linh hoạt các tình huống, góp phần giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và trong cấp ủy.

Công tác tiếp dân và xử lý đơn thư của Văn phòng Tỉnh uỷ phải thực hiện một khối lượng công việc ngày càng lớn. Trong các năm từ 2010 đến nay, trung bình mỗi năm tiếp nhận, xử lý và tham mưu xử lý 200 lượt đơn thư khiếu nại tố cáo gửi đến Thường trực Tỉnh uỷ. Tổng hợp tình hình, kiến nghị chỉ đạo những vụ việc lớn, phức tạp và tham gia cùng với các cơ quan chức năng tiếp người khiếu kiện tại trụ sở tiếp dân của UBND tỉnh và cơ quan Tỉnh uỷ; liên hệ với các địa phương có người khiếu kiện và các cơ quan có liên quan để xử lý kịp thời các tình huống phức tạp xẩy ra.

Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính trong quy trình tiếp nhận, đăng ký, chuyển giao, xử lý văn bản đến; Cập nhật, theo dõi quy trình xử lý văn văn bản trên máy vi tính; kiểm tra thể thức, thể loại văn bản đi; đánh máy, nhân sao, phát hành văn bản kịp thời, an toàn, bí mật. Cập nhật văn bản đã phát hành vào mạng công nghệ thông tin nội bộ để phục vụ kịp thời việc nghiên cứu, khai thác. Phục vụ tốt tài liệu các hội nghị Ban Chấp hành, Ban Thường vụ; các cuộc làm việc của Thường trực Tỉnh ủy với các sở, ban ngành, các huyện, thành, thị, đảng uỷ trực thuộc; các ban chỉ đạo của Tỉnh uỷ. Lập hồ sơ hiện hành, hồ sơ hội nghị, hồ sơ chuyên đề, hồ sơ lưu đầy đủ, khoa học. Làm tốt công tác hành chính, tổ chức cơ quan. Hàng năm tiếp nhận, theo dõi và chuyển xử lý hơn 5.000 văn bản đến; những năm gần đây trên 6.000 văn bản đến; phát hành từ 700 đến 1.000 văn bản các loại, đánh máy nhân sao hàng vạn trang tài liệu. Tiết kiệm vật tư, văn phòng phẩm; bảo quản tốt máy móc, thiết bị làm việc. Thực hiện tốt cải cách hành chính trong cơ quan, đơn vị, phân công, phân cấp nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể; tiếp nhận, chu chuyển, xử lý văn bản hàng ngày khẩn trương hơn; không có hiện tượng công việc ùn tắc, gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân.

Sau khi có Quyết định số 20-QĐ/TW, ngày 23/9/1987 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Phông Lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam”; ngày 13/9/1995, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Quyết định số 48-QĐ/TU thành lập Kho Lưu trữ Tỉnh ủy (nay là Phòng Lưu trữ). Từ đó đến nay, công tác lưu trữ ở Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Trị đã không ngừng được đổi mới, khoa học, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho tỉnh ủy chỉ đạo công tác văn thư và lưu trữ; trực tiếp quản lý Lưu trữ lịch sử của Đảng ở cấp tỉnh; chỉ đạo, hướng dẫn khoa học nghiệp vụ công tác văn thư và lưu trữ đối với các cơ quan, tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã, phường, thị trấn; thực hiện nhiệm vụ Lưu trữ cơ quan của tỉnh ủy và văn phòng tỉnh ủy.

         Trong những năm qua, được sự quan tâm của Ban chỉ đạo CNTT Văn phòng Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ Quảng Trị đã đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Chỉ thị số 35-NQ/TU, ngày 29/6/2004, về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác ứng dụng công nghệ thông tin; phê duyệt và tập trung lãnh đạo triển khai Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng tỉnh giai đoạn 2015 - 2020. Nhận thức về ứng dụng CNTT trong các cơ quan Đảng, đoàn thể có những chuyển biến tích cực. Việc ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực hoạt động ngày được nhân rộng, đã góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng của tỉnh. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin được tăng cường. Tham mưu các thủ tục triển khai chữ ký số, chứng thư số cho cá nhân và tổ chức trong toàn hệ thống cơ quan Đảng tỉnh. Đã xây dựng Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh trên mạng Internet. Tại cấp huyện việc trao đổi thông tin với cấp xã được thực hiện thông qua hệ thống phần mềm nội bộ webmail trên mạng Internet. Hiện nay có 124/141 xã, phường, thịt rấn kết nối mạng diện rộng của Đảng, đạt 87,94%. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Quy định về việc gửi nhận văn bản và thư điện tử trên Cổng thông tin điện tử của Đảng bộ tỉnh. Chỉ đạo các ban và Văn phòng Tỉnh uỷ đăng ký hộp thư điện tử cho cán bộ, chuyên viên và các đồng chí uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ. Chỉ đạo các cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện cho các đơn vị cấp dưới đồng thời hàng tháng, hành quý, sáu tháng, hàng năm đều kiểm tra, giám sát các huyện, thành, thị ủy và các Đảng ủy trực thuộc trong việc thực hiện các chương trình về ứng dụng CNTT. Nhờ đó đã góp phần từng bước hiện đại hóa công tác văn phòng, cải cách hành chính, giúp lãnh đạo nắm được thông tin kịp thời.

         Thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy Đảng, trong những năm qua, công tác quản lý tài chính của Đảng bộ đã có nhiều bước chuyển biến tích cực, đạt hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện của cấp ủy. Để tăng cường sự quản lý chặt chẽ trong công tác quản lý tài chính của Đảng bộ, hàng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao Văn phòng Tỉnh ủy tham mưu giúp Thường trực cấp ủy xây dựng dự toán theo Luật Ngân sách, đảm bảo các nội dung chi. Việc lập dự toán đầy đủ các nội dung chi hoạt động đã giúp công tác quản lý điều hành thực hiện dự toán ngân sách tốt, nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính, thường xuyên bảo đảm phục vụ kịp thời cho yêu cầu chỉ đạo, lãnh đạo của cấp uỷ. Bên cạnh đó, Văn phòng Tỉnh ủy đã tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành cơ chế, quy chế quản lý điều hành ngân sách; tổ chức kiểm tra, hướng dẫn thực hiện chế độ chính sách, chế độ kế toán đối với văn phòng cấp ủy cấp dưới và các đơn vị thụ hưởng ngân sách Tỉnh ủy.

Về cụ thể hóa các cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước về chế độ, tiêu chuẩn, định mức sử dụng ngân sách đảng của đảng bộ, Văn phòng cấp ủy đã tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành một số văn bản quy định về quản lý tài chính, tài sản, thực hiện chế độ chi hoạt động công tác đảng như: Quy định số 16-QĐ/TU ngày 23/8/2010 về một số chế độ chi xây dựng, thẩm định văn bản trình Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; Quy định số 13-QĐ/TU, ngày 23/8/2010, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số chế độ chi tiêu bảo đảm hoạt động của các huyện, thành, thị ủy...

Công tác quản trị đã tập trungphục vụ tốt các kỳ họp của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, hội nghị cán bộ toàn tỉnh, các cuộc làm việc của Thường trực với các sở, ban, ngành và cơ sở mỗi năm với hàng trăm cuộc họp. Tiếp đón và phục vụ chu đáo các đoàn khách Trung ương, khách quốc tế và các tỉnh bạn về làm việc với tỉnh. Phục vụ tốt các chương trình công tác kiểm tra, chỉ đạo của Thường trực Tỉnh uỷ; chăm lo công tác điện, nước, vệ sinh môi trường, xăng xe; cải tạo, nâng cấp nhà làm việc, chăm sóc khuôn viên cây cảnh, xây dựng cơ quan xanh, sạch, đẹp. Phối hợp với công an bảo vệ mục tiêu, đảm bảo an ninh trật tự cơ quan.

         Tổ chức bộ máy và cán bộ thực hiện đúng theo quy định của Trung ương; phân công, phân cấp nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; phát huy trách nhiệm và tính năng động, sáng tạo của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Hiện nay, tổng số cán bộ, công chức, người lao động của Văn phòng Tỉnh ủy có 45 người. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 05 thạc sĩ, chiếm 11%; 37 cử nhân, chiếm 82%; 04 trung cấp, chiếm 8,8%. Trình độ lý luận chính trị: cao cấp, cử nhân: 16 đồng chí, chiếm 35,5%; trung cấp: 17, chiếm 37,7%; sơ cấp: 01, chiếm 0,2%. Mã ngạch: Có 01 đồng chí chuyên viên cao cấp; 13 đồng chí chuyên viên chính và tương đương, 23 đồng chí chuyên viên và tương đương. Văn phòng Tỉnh ủy luôn luôn quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị; công tác đề bạt, bổ nhiệm, tuyển dụng, tiếp nhận và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ đảm bảo công khai, dân chủ, đúng quy trình quy định.

         Văn phòng Tỉnh ủy đã phối hợp với các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tham mưu tổng kết các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương liên quan đến các ngành, lĩnh vực; Khâu nối và phối hợp hoạt động với Văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng HĐND, Văn phòng UBND, các Ban đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội để phục vụ các yêu cầu, nhiệm vụ của Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy. Chỉ đạo thực hiện tốt Quy chế phối hợp giữa Văn phòng Tỉnh uỷ với Văn phòng UBND tỉnh, Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, Văn phòng HĐND tỉnh; phối hợp giữa Văn phòng Tỉnh uỷ với các ban đảng Tỉnh uỷ. Luôn tranh thủ sự hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện của Văn phòng Trung ương Đảng đối với công tác văn phòng tỉnh uỷ.

         Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác văn phòng cấp uỷ còn không ít hạn chế, thiếu sót. Tham mưu xây dựng và thực hiện chương trình làm việc tuy có cố gắng, nhưng có việc đưa vào chương trình chưa thật sát hợp, chưa đôn đốc các cơ quan chuẩn bị đề án đảm bảo tiến độ và chất lượng. Chất lượng công tác tham mưu có mặt hạn chế, nhất là chất lượng tham mưu chuyên sâu trên một số lĩnh vực; thiếu những đề xuất mang tính đột phá; việc theo dõi nắm tình hình, thông tin phục vụ lãnh đạo còn bị động, thiếu kịp thời. Thực hiện nhiệm vụ phối hợp nghiên cứu, tham mưu và thẩm định các đề án về kinh tế-xã hội, nội chính trình cấp uỷ có mặt hạn chế, chưa phản biện được nhiều về nội dung đề án, vì thiếu cán bộ và chưa có cơ chế thích hợp để thực hiện. Hình thức các sản phẩm thông tin còn chậm cải tiến, nội dung chưa phong phú, có việc chưa kịp thời. Việc thực hiện một số báo cáo định kỳ, nhất là báo cáo tháng có thời gian gặp khó khăn vì thiếu thông tin do một bộ phận chuyên viên chưa tích cực tham gia, mặt khác nguồn thông tin từ các sở, ngành, địa phương gửi về chưa thật phong phú; có sản phẩm thông tin còn bị trùng lặp về nội dung. Việc hướng dẫn nghiệp vụ văn phòng cấp ủy cho văn phòng các huyện, thị, thành ủy, đảng ủy trực thuộc và các đơn vị cơ sở tuy đã có cố gắng nhưng có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Sắp xếp, bổ sung, điều chỉnh để kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ thực hiện còn chậm ở một số bộ phận. Có biểu hiện hụt hẫng nguồn cán bộ chủ chốt kế cận ở một số phòng chuyên môn, đơn vị trực thuộc. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống các cơ quan Đảng từ tỉnh đến cấp xã vẫn chưa mạnh; việc gửi nhận văn bản trên mạng thông tin diện rộng của Đảng thực hiện chưa nghiêm túc. Thói quen sử dụng văn bản giấy vẫn chưa được khắc phục nhiều; thực hiện quy trình xử lý văn bản trên mạng máy tính chưa phổ biến và đồng bộ. Mô hình hoạt động của Nhà khách Tỉnh uỷ còn lúng túng, gây khó khăn trong công tác chỉ đạo, quản lý. Đội ngũ cán bộ làm công tác nghiệp vụ chuyên môn tại một số phòng đang còn thiếu nên đã ảnh hưởng đến tiến độ công việc. Trình độ chuyên môn của một số cán bộ, chuyên viên chưa đáp ứng được yêu cầu.

       Những vấn đề đặt ra sau 24 năm thực hiện Chỉ thị 17 - CT/TW

       Công tác Văn phòng cấp ủy là nhiệm vụ đòi hỏi phải thường xuyên đổi mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu của Ban Chấp hành đảng bộ, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh uỷ nói riêng và cả hệ thống chính trị nói chung trong toàn tỉnh, vì vậy, việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên là một việc làm thường xuyên, liên tục để giúp Văn phòng Tỉnh ủy nâng cao chất lượng công tác, chất lượng tham mưu, phục vụ. Việc chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các Chỉ thị cần có sơ kết, tổng kết (5 năm, 10 năm...) để rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo Văn phòng Tỉnh ủy, không nên để quá dài như quá trình thực hiện Chỉ thị này.

         Qua quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW, phát sinh một số vấn đề như sau:

         - Trong thực tiễn hiện nay, việc quy định về chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng cấp uỷ cấp huyện, nhất là cấp xã còn có những bất cập.Cán bộ văn phòng cấp uỷ cấp huyện thường xuyên thay đổi. Ở cấp xã, phường thị trấn: chưa có biên chế văn phòng cấp uỷ chuyên trách, do đó, việc tham mưu triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo trong hệ thống cấp uỷ gặp khó khăn, không bảo đảm tính hệ thống, thông suốt trong hoạt động của văn phòng cấp uỷ.

        - Cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp ở các văn phòng cấp ủy luôn phải ở trong tình trạng áp lực công việc lớn, khối lượng công việc nhiều, chất lượng công việc phải giải quyết đòi hỏi độ chính xác và khái quát rất cao, nhưng chế độ, chính sách đãi ngộ, phương tiện, điều kiện làm việc vẫn giống như các bộ phận công tác khác, do đó chưa khuyến khích, thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao, cán bộ giỏi về làm công tác tham mưu, tổng hợp.

         Từ thực tiễn công tác văn phòng cấp uỷ thời gian qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

         Một là, tranh thủ và chấp hành tuyệt đối sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên về mọi mặt của ban thường vụ, thường trực cấp ủy.

        Hai là, thực hiện chặt chẽ, đồng bộ việc phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, địa phương để làm tốt vai trò đầu mối trong công tác tham mưu, tổ chức phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh uỷ.

       Ba là, công tác văn phòng cấp uỷ là một hoạt động đặc thù, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao. Do vậy phải thực hiện khẩn trương tiến trình hiện đại hoá công tác văn phòng với các nội dung về tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ, quy chế, quy trình hoá công tác, bảo đảm mọi hoạt động của văn phòng phải được tổ chức thực hiện theo chương trình công tác với các quy trình tác nghiệp khoa học đi đôi với ứng dụng mạnh mẽ CNTT, có như vậy công tác văn phòng mới đạt chất lượng, hiệu quả theo yêu cầu đề ra.

        Bốn là, phải xây dựng bộ máy văn phòng tinh, gọn với đội ngũ cán bộ có phẩm chất, đạo đức tốt, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ với công việc mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. - Hải Yến-

1888 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Tin tổng hợp

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 800
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 800
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87016573