Hiệu quả từ bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ và rừng đặc dụng
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Quốc Trị, thời gian qua Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng (RĐD), rừng phòng hộ (RPH), do đó đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận như: Nâng cao độ che phủ rừng, chất lượng rừng, góp phần tạo sinh kế nâng cao đời sống người dân ở những khu vực có loại rừng này.
Hiện cả nước có 14,45 triệu ha rừng; trong đó, rừng đặc dụng là 2,15 triệu ha; rừng phòng hộ 4,6 triệu ha. Đến nay, cả nước đã thiết lập 164 Ban quản lý rừng đặc dụng; 231 BQLR phòng hộ. Các BQL đang quản lý khoảng 46,7% diện tích đất lâm nghiệp, đại diện cho hầu hết các hệ sinh thái quan trọng trên cạn, trên biển, đất ngập nước; trong đó phần lớn là rừng nguyên sinh và là nơi sinh sống của hầu hết các loài động, thực vật có nguy cơ đe dọa cần được bảo tồn phát triển bền vững.
Thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp cho thấy mỗi năm các BQLR đã giao khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng, cá nhân, hộ gia đình trên 402.000 ha, trồng rừng mới gần 11.000 ha. Việc giao khoán này góp phần tăng thêm diện tích có rừng, nâng độ che phủ rừng, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương sống trong vùng lõi và vùng đệm.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường đánh giá, trong các loại rừng, rừng đặc dụng và rừng phòng hộ chiếm vị trí rất quan trọng bởi đây là nơi có đa dạng sinh học cao nhất, bảo tồn động thực vật quý hiếm; là vùng sinh thủy, “van” điều hòa tổng thể cho từng tiểu vùng khí hậu; phát triển du lịch, nghiên cứu, học tập… "Đây là nhân, là lõi của phát triển bền vững", Bộ trưởng nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, hai nhóm rừng trên có 6,75 triệu ha nên cần tạo ra dư địa mới cho khu vực này vừa bảo tồn vừa phát triển kinh tế. Trước đây, ngành lâm nghiệp chỉ chú trọng bảo vệ và phát triển, nhưng nay Luật Lâm nghiệp yêu cầu phải chuyển nhận thức trở thành ngành kinh tế, phát triển theo chuỗi từ sản xuất, chế biến, tổ chức thương mại; việc chuyển đổi trạng thái rừng với gần 54% là rừng kinh tế đang là động lực, điều kiện khá tốt để ngành tiếp tục phát triển.
Công tác bảo tồn loài cũng được thực hiện tốt với việc nhiều loài động, thực vật nguy cấp, quý, hiếm được đưa vào danh sách và được bảo vệ, bảo tồn tại các BQL, như voi ở Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh voi Quảng Nam, gấu ở VQG Tam Đảo, sao la ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Sao La Thừa Thiên-Huế, voọc ở VQG Cúc Phương, sâm Ngọc Linh ở Khu BTTN Ngọc Linh KonTum..
Tổng diện tích đất RĐD và đất RPH được trồng mới trong giai đoạn 2014-2019 là 57.481,8 ha...
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Đó là xu hướng suy thoái đa dạng sinh học do nạn phá rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp; tăng trưởng nóng về kinh tế, áp lực dân số và những khó khăn, hạn chế về nguồn lực; các cơ chế, chính sách quản lý, đầu tư bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học chưa đồng bộ và hầu hết sẽ hết hiệu lực vào năm 2020.
Loay hoay tự chủ
Ông Nguyễn Duy Thịnh, Phó Giám đốc Vườn quốc gia Hoàng Liên cho biết, thực hiện theo chỉ đạo của Bộ, thi hành Luật Lâm nghiệp, đơn vị đã chủ động tích cực phối hợp với sở, ngành xây dựng quản lý rừng bền vững. Vườn sẽ xây dựng và trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chính quyền địa phương đề án phát triển du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng.
Trước vấn đề sẽ phải hướng đến tự chủ về tài chính ông Nguyễn Duy Thịnh cho biết, hiện Vườn chủ yếu quản lý 2 tuyến du dịch và có thu phí. Khoản phí thu được, Vườn được giữ lại 20% chủ yếu phục vụ chi trả cho việc thu phí, còn 80% nộp lại ngân sách Nhà nước. Do đó, Vườn hầu như không có vốn để đầu tư trong khi nhu cầu khách du lịch ngày càng cao. Nếu không đầu tư, quy hoạch thì việc phát triển du lịch sẽ rất yếu. Ông Nguyễn Duy Thịnh đề nghị Trung ương, Bộ xem xét cho phép Vườn có cơ chế được giữ lại 90% khoản thu cho tái đầu tư để phát triển du lịch.
Hiện nay có 45% BQLR đặc dụng và 59% BQLR phòng hộ được chi trả tiền Dịch vụ môi trường rừng (DVMTR). Rất ít trong số đó có những hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái rừng, và kinh doanh có hiệu quả thì lại càng hạn chế.
Nổi lên có 2 đơn vị là VQG Phong Nha Kẻ Bàng và VQG Ba Vì kinh doanh cả 3 loại hình dịch vụ du lịch sinh thái (tự tổ chức, liên doanh, liên kết và cho thuê môi trường rừng). Và hiện có 231 BQL RPH chưa tổ chức các hoạt động DVDLST. Kết quả năm 2018 đã đón tiếp 2,39 triệu lượt khách, tăng 43 % so với 2017, nhưng doanh thu lại đạt 155,5 tỷ, tức là chỉ tăng 7 % so với năm 2017.
Nếu nhìn dưới góc nhìn kinh tế thì đây là hoạt động kinh tế chưa đạt hiệu quả. Nếu không muốn so sánh tỉ trọng giữa sản xuất so với doanh thu như vậy là thua lỗ.
Theo Báo cáo của 129 BQL rừng gửi về Tổng cục Lâm nghiệp (tháng 9/2019), có 110/129 đơn vị đã được phê duyệt phương án tự chủ. Tuy nhiên, tổng hợp số liệu từ các đơn vị này cũng cho thấy không có BQL rừng tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư (0 %); có 9/129 BQL tự chủ 100% chi thường xuyên (6,97%); 30/129 BQL tự chủ một phần chi thường xuyên (23,26 %); có tới 90/129 BQL do NSNN bảo đảm chi thường xuyên (69,77 %).
Phải nói rằng, các BQL RĐD, RPH còn rất khó khăn trong thu hút các nguồn lực tài chính xã hội hoá và NSNN vẫn là nguồn chủ yếu trong đầu tư bảo vệ và phát triển rừng… Rõ ràng, bảo vệ rừng là nền tảng bảo tồn sinh học. Muốn bảo vệ rừng tốt phải phối hợp với cấp ủy chính quyền địa phương cùng người dân và bảo tồn luôn gắn với phát triển bền vững.
Nếu chỉ khư khư bảo tồn thì cũng là hành động vô tình níu chân sự phát triển hằng ngày hằng giờ của rừng, của cộng đồng dân cư gắn với rừng. Phương án khai thác du lịch sinh thái trong rừng đã được nhiều nơi trên thế giới nghiên cứu và phát triển thành công. Đó là phát triển ‘kinh tế xanh’, điều này cũng đã được pháp luật về lâm nghiệp quy định, phù hợp bối cảnh tự chủ tài chính theo lộ trình của Chính phủ.
Chính sách về rừng đặc dụng, nhất là gói hỗ trợ thôn buôn đã thực sự đi vào cuộc sống, người dân nhìn rừng phát triển để thấy tương lai của mình. Cũng chính vì thế, cần duy trì và tăng cường tạo mối liên kết chặt giữa chính quyền người dân vùng đệm với các BQL rừng đặc dụng, hỗ trợ đắc lực trong bảo vệ rừng của các VQG.
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã yêu cầu các đơn vị chuyên môn tập trung triển khai quy hoạch lâm nghiệp quốc gia, hoàn thiện hệ thống văn bản có gắn với Hiệp định đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (PVA/FLEGT) có chất lượng để quản lý; chuẩn bị chương trình phát triển rừng giai đoạn 2021-2025; tập trung chỉ đạo, xây dựng kế hoạch trung hạn 2020-2025, gắn với đó là các chương trình đề tại khoa học cấp quốc gia, vùng…
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, hiện cả nước có 395 ban quản lý rừng đặc dụng và phòng hộ với nhiều đặc thù. Tổng cục Lâm nghiệp cần phân dạng cụ thể hơn và xây dựng các dạng mô hình điển hình để nhân rộng. Nếu quản lý tốt, rừng chính là lợi thế của Việt Nam. Du lịch, dịch vụ sẽ trở thành thế mạnh của kinh tế, đây là động lực, tiền đề để hy vọng rừng phát triển tốt hơn, nhiều rừng hơn, đa dạng sinh học hơn.
Phát triển kinh tế, văn hóa của cộng đồng, bảo tồn giá trị riêng biệt của RĐD và RPH cũng chính là lan tỏa giá trị của rừng đến với người dân không chỉ trong khu vực mà thông qua du khách, giá trị đó sẽ ghi đậm dấu ấn văn hóa riêng biệt của rừng Việt Nam.
Đỗ Hương