Tại phiên họp thứ 27 diễn ra vào sáng 17/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã nghe nghe và thảo luận về Báo cáo kết quả 2 năm thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 (giai đoạn 2017-2018).
Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nghiêm túc chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 76/2014/NQ13 của Quốc hội về tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đến năm 2020; các bộ, ngành, địa phương đã tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao; khuôn khổ văn bản pháp lý để triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cơ bản đã được hoàn thiện; cơ chế quản lý điều hành, phân công phân cấp, phối hợp, lồng ghép trong tổ chức thực hiện đã từng bước được hình thành và đi vào nền nếp; nhiều mục tiêu đề ra trong Nghị quyết đã được tổ chức thực hiện đạt và vượt tiến độ đề ra.
Tuy nhiên, một số nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết 76 chưa đạt tiến độ quy định, việc chuyển đổi phương thức hỗ trợ người nghèo từ hỗ trợ cho không sang hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn triển khai còn chậm; nguồn lực đầu tư cho các địa bàn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, vùng đồng bào dân tộc và miền núi tuy đã được ưu tiên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu; các chính sách giảm nghèo đã được tích hợp bước đầu nhưng vẫn còn dàn trải, thiếu tính hệ thống; kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dũng cũng cho biết định hướng, giải pháp của Chính phủ tiếp thực hiện Nghị quyết, đến năm 2020 là: Hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu giảm nghèo theo Nghị quyết của Quốc hội, phấn đấu đến hết năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống dưới 4% theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020; tỷ lệ bình quân hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm xuống dưới 30%.
Chuẩn bị tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, xây dựng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2021-2015, làm cơ sở đề xuất với Quốc hội về định hướng thực hiện mục tiêu giảm nghèo giai đoạn tiếp theo.
Đại diện cơ quan thẩm tra Báo cáo của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội (Ủy ban) Nguyễn Thúy Anh khẳng định: Thường trực Ủy ban cơ bản tán thành với các đánh giá, nhận định của Chính phủ về những kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết 76 và cho rằng đây là những kết quả quan trọng có được từ việc phát huy vai trò, sự tham gia của cả hệ thống chính trị và người dân, cùng với sự quan tâm chỉ đạo sát sao, tích cực đổi mới công tác điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.
Báo cáo của Chính phủ đã phản ánh khá toàn diện kết quả thực hiện 8 nhiệm vụ giảm nghèo trong giai đoạn 2017 - 2018, làm rõ nguyên nhân của một số hạn chế, tồn tại. Tuy nhiên, còn một số vấn đề chưa được thể hiện hoặc đánh giá đúng mức trong Báo cáo của Chính phủ. Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được nêu trong phần I của Báo cáo nhưng Chính phủ chưa nêu định hướng giải pháp cụ thể để khắc phục.
Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thúy Anh cho hay, Thường trực Ủy ban thống nhất với đánh giá của Chính phủ về những kết quả quan trọng trong thực hiện chỉ tiêu giảm nghèo và hạn chế tái nghèo: Hết năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 6,7% (giảm 1,53% so với cuối năm 2016); ước đến cuối năm 2018 còn dưới 6% (giảm khoảng 1,0-1,3% so với năm 2017); tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm bình quân 5,43%/năm; tại các xã thuộc Chương trình 135 giảm khoảng 3 - 4%/năm, đạt mục tiêu về giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm theo Nghị quyết 142/2016/QH13. Tình trạng tái nghèo được kiềm chế và có xu hướng giảm tích cực, tỷ lệ tái nghèo trung bình cả nước giảm từ 0,13% (năm 2016) xuống 0,10% (năm 2017); bên cạnh 10 tỉnh, thành phố duy trì được tình trạng không tái nghèo, một số tỉnh thuộc khu vực khó khăn đạt thành tích ấn tượng trong kéo giảm tỷ lệ tái nghèo.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thúy Anh cũng cho rằng thành quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững bởi các yếu tố như: Đến tháng 3/2018, tuy đã có 8/64 huyện 30a được công nhận thoát nghèo; 14/30 huyện hưởng cơ chế 30a thoát khỏi tình trạng khó khăn nhưng lại có thêm 29 huyện thuộc 18 tỉnh được xét bổ sung vào danh sách huyện nghèo giai đoạn 2018 - 2020. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng, miền; khu vực các huyện nghèo nhiều nơi tỷ lệ hộ nghèo vẫn trên 50%, một số nơi trên 60%; xu hướng gia tăng khoảng cách giàu - nghèo ngày càng rõ rệt. Hết năm 2017 cả nước còn tới 30.012 hộ người có công với cách mạng thuộc diện hộ nghèo, chiếm tới 1,8% hộ nghèo cả nước, trong đó tập trung tới 38% tại khu vực miền núi Đông Bắc.
Thường trực Ủy ban tán thành với các nguyên nhân khách quan dẫn đến tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới như nêu trong Báo cáo của Chính phủ; đồng thời đề nghị cần quan tâm đánh giá thêm một số nguyên nhân chủ quan như tình trạng không muốn thoát nghèo để duy trì các chính sách có tính chất bao cấp; chưa kịp thời chuyển đổi chính sách để khắc phục sự ỷ lại của một bộ phận hộ nghèo; hiệu quả của việc nhân rộng các mô hình sinh kế còn hạn chế…
Về việc phân bổ, sử dụng nguồn lực, theo Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thúy Anh, trong 3 năm (2016-2018), ngân sách trung ương đã giao trên 21.597 tỷ đồng, bằng 52,1% tổng vốn cả giai đoạn 2016 - 2020 để thực hiện CTMTQG giảm nghèo bền vững (trong đó, vốn đầu tư phát triển là 14.906,146 tỷ đồng, vốn sự nghiệp là 6.691,411 tỷ đồng), cùng với khoảng 60.111 tỷ đồng để thực hiện các chính sách giảm nghèo thường xuyên.
Tuy nhiên, qua thực tiễn giám sát nổi lên một số vấn đề đáng quan tâm như: Nguồn vốn từ ngân sách Trung ương để thực hiện một số chính sách bố trí vốn không đúng kế hoạch, thẩm định vốn kéo dài, giải ngân chậm, dồn vào thời điểm giữa năm, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các công trình, dự án; một số chương trình, chính sách có nhu cầu thực tế lớn hơn với dự kiến ban đầu, khó cân đối vốn. Một số địa phương còn lúng túng, thiếu chủ động trong lồng ghép, phân bổ nguồn vốn của 2 CTMTQG và các CTMT dẫn đến tình trạng không bố trí nguồn lực để thực hiện một số chính sách. Có tình trạng ngân sách địa phương không đủ khả năng cân đối vốn đối ứng để thực hiện các dự án của CTMTQG hoặc các chính sách giảm nghèo. Đây là vấn đề chưa được đánh giá trong Báo cáo của Chính phủ…
“Nhìn chung, giai đoạn 2017 - 2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan, các địa phương đã phát huy tốt thành quả và kinh nghiệm quản lý, quyết liệt, sâu sát điều hành công tác giảm nghèo, nỗ lực triển khai và hoàn thành khối lượng lớn công việc, tập trung vào việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế để vận hành CTMTQG giảm nghèo bền vững, duy trì được kết quả giảm nghèo đạt chỉ tiêu Quốc hội giao ở mức cao, kiềm chế có hiệu quả tái nghèo; có nhiều chủ trương, cách làm mới để huy động xã hội, phát huy mạnh mẽ trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và thu hút sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người nghèo”, Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thúy Anh phát biểu.
Trong Báo cáo thẩm tra, Ủy ban cũng nêu lên một số kiến nghị, cụ thể, đối với Quốc hội, UBTVQH: Bố trí đủ kinh phí để thực hiện CTMTQG giảm nghèo bền vững trong 2 năm còn lại (2019 – 2020); quan tâm bổ sung kinh phí cho một số nhiệm vụ cấp bách thuộc lĩnh vực giảm nghèo, đặc biệt trong việc giải quyết thiếu hụt các chỉ số về nhà ở, y tế là những yếu tố mấu chốt để bảo đảm an sinh và trật tự xã hội; bổ sung nguồn vốn để Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai các chương trình tín dụng kịp thời, hiệu quả. Tiếp tục quan tâm các dự án luật có liên quan đến chính sách giảm nghèo để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý; đề cao công tác đánh giá tác động để khắc phục tình trạng ban hành chính sách không có ngân sách.
Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Bám sát các mục tiêu và nhiệm vụ tại Nghị quyết 76/2014/QH13 để tiếp tục cụ thể hóa các định hướng chính sách giảm nghèo bền vững, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả định hướng chính sách hỗ trợ có điều kiện; sơ kết, đánh giá để lựa chọn ưu tiên nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 76 trong 2 năm cuối. Chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính khả thi của một số văn bản; đôn đốc, chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan rà soát, tính toán khả năng nguồn lực để thực hiện các chính sách đã ban hành nhưng chưa được bố trí kinh phí tổ chức thực hiện, đặc biệt là các chính sách đối với khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Quan tâm chỉ đạo lồng ghép và thực hiện đồng bộ chính sách giảm nghèo với các chính sách kinh tế - xã hội khác, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực giảm nghèo; chủ động, tích cực phòng ngừa, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu; chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổ chức việc lồng ghép thực hiện các chính sách theo hướng hỗ trợ có điều kiện. Bố trí vốn ngân sách cấp bổ sung cho Ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện các chương trình tín dụng giảm nghèo; xem xét điều chỉnh mức vay, thời hạn vay phù hợp với các ngành nghề sản xuất để phát huy tốt hơn hiệu quả tín dụng ưu đãi trong giảm nghèo bền vững...
Đối với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên: Tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong công tác vận động sự tham gia của tổ chức trong và ngoài nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, cá nhân trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững; đẩy mạnh công tác giám sát việc tổ chức thực hiện các chính sách giảm nghèo, phát duy dân chủ và nội lực của người dân.
Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xem xét sửa đổi, bổ sung Quy chế vận động, quản lý và sử dụng Quỹ vì người nghèo theo hướng cho phép sử dụng Quỹ vì người nghèo do MTTQ cấp huyện và cấp xã quản lý tham gia hỗ trợ kinh phí để lồng ghép vào Chương trình hỗ trợ nhà ở theo Quyết định 33/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ./.
Nguyễn Hoàng