Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam phù hợp với những thời cơ, vận hội mới chưa từng có của thời đại, khi mà toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, dù gặp nhiều trở lực, nhưng là một xu thế ngày càng sâu rộng, không thể đảo ngược; khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp sau tạo ra cơ hội cho mọi quốc gia thích ứng, tận dụng tốt những thành tựu của nó có thể phát triển bứt phá với tộc độ bất ngờ và những thành công thần kỳ. Đảng ta đã sớm nhận thức đúng, chủ động, tích cực nắm bắt vạn hội này, xem đó là chìa khóa, là đòn bẩy đưa đất nước phát triển tăng tốc, cất cánh. Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là thuận theo xu hướng thời đại.
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam kiến tạo sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện thành công quá trình “đột phá kép”, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh, bền vững.
Đất nước đứng trước thời cơ, vận hội chưa từng có, đồng thời phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức gay gắt do những yếu kém, khuyết điểm tồn tại từ lâu chưa được khắc phục triệt để và do những mặt tác động không thuận của thời cuộc. Do vậy, về thực chất, kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc là quá trình “đột phá kép”. Một mặt, phải đột phá, đi thẳng vào hiện đại, vào những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế, vào quản trị quốc gia hiện đại trên nền tảng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, đi tắt, đón đầu, phát triển bứt phá. Mặt khác, phải đột phá trong việc giải quyết dứt điểm, triệt để những điểm nghẽn, những khuyết tật, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Hai quá trình đột phá này cần được tiến hành song song, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau: đi tắt, đón đầu, đột phá, đi thẳng vào hiện đại là cơ bản, có ý nghĩa quyết định; đột phá khắc phục, giải quyết hiệu quả những yếu kém, bất cập là cấp thiết, quan trọng.
Đột phá mạnh mẽ về thể chế, khai phóng đổi mới sáng tạo và mọi tiềm năng phát triển.
Đổi mới căn bản tư duy, phương pháp xây dựng, thực hành thể chế theo tinh thần thượng tôn pháp luật, lấy thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát huy mọi tiềm năng của đất nước phục vụ công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc làm mục đích xuyên suốt. Tổng rà soát, khắc phục những chống chéo, mâu thuẫn, những kẻ hở về thể chế đang là điểm nghẽn lớn của sự phát triển; loại bỏ những thể chế đã bị thực tiễn vượt qua; bổ sung những thể chế mới phù hợp, bền vững, có giá trị lâu dài để phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước và nước ngoài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khai mở các động lực phát triển; tạo hành lang thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, cuộc cách mạng chuyển đổi số, thu hút, phát huy nhân tài… Vận hành thể chế theo tinh thần phát huy tốt nhất vai trò, tính chủ động, năng động của các chủ thể; gắn bó chặt chẽ và phục vụ thiết thực yêu cầu của thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính hợp lý và sức mạnh của thể chế.
Kiên quyết thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới
Tư duy chiến lược, thể chế phát triển đất nước được thực hiện trước hết và chủ yếu thông qua tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Sắp xếp tổ chức bộ máy không phải vì tổ chức; sắp xếp tổ chức bộ máy thật sự khoa học là nhằm phát huy cao nhất năng lực, tâm huyết, khát vọng cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức. Bố trí công việc đúng sở trường của cán bộ, công chức theo vị trí việc làm; chọn đúng người đứng đầu có tâm, có tầm; có cơ chế, chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ, công chức, nhất là những người thực đức, thực tài; xây dựng môi trường chính trị dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, nhân văn để nuôi dưỡng, phát huy tài năng - đó chính là cái đích, là linh hồn của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy.
Đẩy mạnh cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo bước phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất, hình thành phương thức sản xuất số là đòn bẩy đưa đất nuwocs cất cánh, đẩy nhanh tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Để khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, trên thế giới, cần tiến hành đồng thời việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, triển khai công nghệ cao, nhất là công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, ưu tien những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế gắn với việc phổ cập, đào tạo nguồn nhân lực số, phát triển mạnh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối, đặc biệt là hạ tầng số.
Thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các mô hình, phương thức sản xuất, kinh doanh thíc ứng với thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển mạnh lực lượng sản xuất số, thực sự đưa khoa học, công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đồng thời điều chỉnh, hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN phù hợp với lực lượng sản xuất số, từng bước xác lập phương thức sản xuất số, hoàn thiện hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc XHCN. Phương thức sản xuất số là một dạng thức phương thức sản xuất thích ứng với kinh tế tri thức phát triển trên nền tảng công nghệ số; là sự minh chứng trình độ phát triển cao, vượt trội của phương thức sản xuất XHCN. Đây chính là nhân tố quyết định để Việt Nam có thể sớm hoàn thành bước phát triển quá độ lên CNXH, di nhanh vào công cuộc kiến thiết CNXH.
Huy động, sử dụng tối ưu các nguồn lực; phát huy tối đa các động lực, nhất là sức mạnh của toàn dân, toàn quân, của con người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần khai mở mạnh mẽ các động lực phát triển - động lực từ lợi ích; từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; từ giải phóng sức sản xuất xã hội…, trong đó quan trọng nhất là phát huy sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc văn hiến, anh hung; sức mạnh yêu nước, tự tôn, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường của toàn dân; sức mạnh của lực lượng vũ trang anh hung, bách chiến, bách thắng; sức mạnh và khát vọng cống hiến của con người Việt Nam cần cù, thông minh, sáng tạo trên nền tảng truyền thống lịch sử, văn hóa Việt Nam đặc sắc. Đây là những chủ thể đóng vai trò trung tâm của công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới; lực lượng đóng vai trò quyết định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trình độ cao, chất lượng cao, có sức cạnh tranh và tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất, giá trị toàn cầu; xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại có năng lực bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN. Chăm lo bồi dưỡng sức dân; chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam; lấy ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, của con người làm mục tiêu hàng đầu – đó chính là thượng sách kiến tạo kỷ nguyên mới.
Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng gánh trên vai sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trọng trách rất nặng nề. Lịch sử đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền; xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại, xứng đáng là người cầm lái vĩ đại đưa dân tộc đến phồn vinh, hạnh phúc.
Nhân dân đặt niềm tin và kỳ vọng Đảng và hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện: bản lĩnh về chính trị, thống nhất về tư tưởng, cao về văn hóa, đẹp về đạo đức, khoa học về tổ chức, tiêu biểu về cán bộ. Nhân dân mong muốn và đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược thực sự có đức có tài, biết lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, biết dĩ công vi thượng, có năng lực thiết kế, truyền cảm hứng và làm gương để Nhân dân noi theo trên cuộc hành trình kiến tạo kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đổi mới tư duy phát triển, thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ gắn rất chặt và tiến hành đồng thời với đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý, quản trị, hoạt động của Đảng, hệ thống chính trị.
Đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý của Nhà nước; xây dựng và vận hành hiệu quả nền quản trị quốc gia hiện đại hướng vào phát huy tối ưu vai trò của các chủ thể và tối ưu hóa việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực phục vụ phát triển. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số; tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; phân cấp, phân quyền mạnh cho địa phương, cơ sở, xóa bỏ mọi sự rang buộc, chi phối cơ học về hành chính, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, pháp quyền.
Hướng mạnh về cơ sở, phát huy tối đa vai trò chủ thể, trung tâm của Nhân dân; thật sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; tạo môi trường để hiện thực hóa cơ chế”dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hướng dẫn xây dựng, nhân rộng các mô hình nhân dân tự quản ở cơ sở theo phương châm dựa vào dân, lấy tài dân, sức dân để lo cho dân.
Kiến tạo kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc là sự nghiệp vĩ đại bao hàm rất nhiều công việc lớn lao, phức tạp, cần có sự thống nhất đồng lòng, khơi dậy khát vọng phát triển trong mỗi người dân, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước lên CNXH./. Mai Diệu Linh