|
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển phát biểu tại phiên họp. Ảnh: VGP/Lê Sơn |
336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết tại Việt Nam, mô hình đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) bắt đầu được thực hiện từ năm 1997, khi Chính phủ ban hành Nghị định 77-CP về quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) áp dụng cho đầu tư trong nước.
Theo số liệu, tính đến đầu năm 2019, có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng, trong đó, 140 dự án áp dụng loại hợp đồng BOT, 188 dự án áp dụng loại hợp đồng BT (xây dựng - chuyển giao) và 8 dự án áp dụng các loại hợp đồng khác. Thông qua đó, huy động được hơn 1,6 triệu tỷ đồng vào đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia.
Các công trình, dịch vụ có được từ các dự án PPP đã góp phần tích cực hoàn thiện số lượng, chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, hạ tầng đô thị, xử lý nước thải, rác thải..., kịp thời giải quyết các nhu cầu bức xúc về dịch vụ công của người dân và nhu cầu cấp bách về cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu đối với sản xuất trong nước.
Bên cạnh các kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy, không ít các dự án được thực hiện kiểm toán đều áp dụng hình thức chỉ định thầu để lựa chọn nhà đầu tư nên tiềm ẩn rủi ro lãng phí, thất thoát và chọn nhà đầu tư không có đủ năng lực thực hiện dự án. Công tác giám sát trong quá trình thực hiện hợp đồng còn lỏng lẻo. Bất cập về mức phí, vị trí đặt trạm thu phí, thời gian thu phí. Cơ chế giám sát đặc biệt là các cơ chế giám sát doanh thu của nhà đầu tư, chế tài xử lý vi phạm của nhà đầu tư cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn thiếu, chưa chặt chẽ...
Tính toán kỹ việc Nhà nước bảo đảm rủi ro
Tán thành với sự cần thiết phải ban hành dự án Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Nhiều thành viên UBTVQH cũng góp ý thêm với đề xuất về cơ chế bảo đảm đối với các dự án PPP quan trọng và cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu.
Theo quan điểm của Ủy ban Kinh tế, việc xây dựng cơ chế bảo đảm của Chính phủ đối với các dự án PPP quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ trong dự án Luật này là cần thiết, đáp ứng được sự mong đợi của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, bổ sung ngay vào dự thảo Luật một số quy định mang tính nguyên tắc như quy định cụ thể về điều kiện, phạm vi, trường hợp áp dụng các cơ chế bảo đảm (bảo đảm cân đối ngoại tệ, bảo đảm cam kết thực hiện nghĩa vụ, bảo đảm nghĩa vụ cung cấp nguyên liệu…); xây dựng cơ chế đánh giá, theo dõi và quản lý các nghĩa vụ nợ dự phòng, rủi ro tài khóa tiềm ẩn từ các dự án PPP trong bối cảnh số lượng dự án PPP và tích lũy vốn PPP sẽ tăng lên đáng kể ở cả cấp Trung ương và địa phương, tránh việc bảo đảm của Chính phủ một cách tràn lan, nhằm kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ công, bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu giữa hai bên (công và tư) trong thực hiện dự án PPP là giải pháp có thể xem xét áp dụng nhằm hài hòa lợi ích của các bên cũng như nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện dự án PPP với vai trò là các đối tác trong hợp đồng PPP.
Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho rằng cần làm rõ cơ chế bảo đảm của Chính phủ đối với các dự án PPP quan trọng. Theo đó, bảo đảm của Nhà nước như thế nào là vấn đề phải tính kỹ, nếu không sẽ trở thành gánh nợ tích lũy lại, phải trả nợ rất dài khi mà những dự án này phần lớn là dự án vắt qua vài chục năm, nhiều giai đoạn.
|
Ảnh: VGP/Lê Sơn |
Cần làm rõ những vấn đề còn bất cập, vướng mắc
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga nêu một thực tế là liên quan đến các dự án BOT giao thông, cả 3 bên (nhà đầu tư, người dân, nhà nước) đều có vướng mắc. Nhà đầu tư chủ yếu kêu lỗ, người dân thì không đồng tình với việc dự án BOT đặt ở đường độc đạo, buộc họ phải đi. Trong khi đó, có chuyên gia tính toán dự án không thể lỗ được nhưng nhà đầu tư vẫn kêu lỗ. Từ đó, bà Nga đề nghị cần trả lời câu hỏi là “quốc tế làm BOT có rơi vào tình trạng này không”?
Bà Nga cũng bày tỏ băn khoăn về cơ chế chia sẻ rủi ro về doanh thu của các dự án BOT khi việc đặt trạm thu phí không hợp lý, Nhà nước yêu cầu thay đổi trạm thì Nhà nước lại phải chia sẻ đối với rủi ro về doanh thu này.
Còn theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình, nếu làm tốt, phương thức hợp tác PPP sẽ mở ra cánh cửa huy động vốn xã hội và vốn quốc tế rất tốt. Tuy nhiên theo ông Bình, quyền lợi của đất nước khi chúng ta triển khai PPP là gì, kẹt ở đâu, những gì bất lợi đặt ra và Luật này giải quyết sự bất lợi ở đâu, sự khác biệt của PPP và xã hội hóa…?. Đây là những câu hỏi cần lời giải.
Lê Sơn