|
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng: Các gói kích thích kinh tế phải đúng trọng tâm, hiệu quả, kịp thời. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Đó là trả lời của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng đối với chất vấn của các đại biểu Quốc hội chiều 11/11 về một số vấn đề liên quan đến gói kích thích phục hồi kinh tế đang được xây dựng.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đặt vấn đề: “Chúng ta phải rút kinh nghiệm được gì và chưa được gì của gói kích cầu đầu tư những năm 2008-2009 để không vấp phải một lần nữa, phát huy được những mặt tốt, tránh những khiếm khuyết của chương trình trước đây”.
“Khi đó, chúng ta tập trung chủ yếu vào thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là 3 mục tiêu lớn nhất của chương trình lúc đó”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết.
Quy mô khi đó nước ta dành ra 122 nghìn tỷ đồng tương ứng với 6,9 tỷ USD. Riêng năm 2009, trong số 122 nghìn tỷ đồng đó, chúng ta đã tập trung thực hiện 100,6 nghìn tỷ đồng tương ứng với 5,7 tỷ USD và tương ứng với 5,6 % GDP lúc đó (khoảng 100 tỷ USD). Các kết quả tích cực đã giúp đất nước vượt qua được khủng hoảng và là một trong số ít những nước có tăng trưởng dương. Năm 2008, chúng ta tăng trưởng 5,7% vào năm 2009 chúng ta tăng trưởng 5,4%.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nhấn mạnh rất rõ những điểm chưa làm được của gói kích cầu kinh tế năm 2009. Dù tác động của gói này là giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đạt được mức tăng trưởng dương vào thời điểm đó, nhưng cũng để lại những hệ lụy lớn khi chính sách thực hiện thiếu đồng bộ, thiếu giám sát.
“Mục tiêu của gói chính sách đó là kích cầu đầu tư, sản xuất, an sinh xã hội, nhưng không kiểm soát tốt, thiếu đồng bộ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, nên khi hỗ trợ lãi suất lớn, tiền không chảy vào sản xuất, mà chảy vào chứng khoán, bất động sản… Hậu quả là lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhìn nhận lại gói kích cầu năm 2009.
Bộ trưởng cũng thừa nhận, gói kích thích kinh tế này cũng có rất nhiều hạn chế, bất cập mà chúng ta cần phải rút kinh nghiệm. Đó là chính sách mới chủ yếu tập trung về phía cung, doanh nghiệp rất khó khăn về đầu ra, chúng ta hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được đầu ra.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ lãi suất thiếu đồng bộ với các chính sách tiền tệ và các chính sách tài khóa khác nên đã làm giảm hiệu quả, dẫn đến trục lợi chính sách. Tức là, vay vốn rồi gửi ngân hàng khác để hưởng chênh lệch. Tiền không chảy vào sản xuất mà chảy vào chứng khoán, bất động sản do chúng ta kiểm soát không chặt chẽ.
Điều này gây ra nhiều ảnh hưởng về ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát tăng cao trong thời kỳ này. Năm 2010, lạm phát của chúng ta là 9,2% còn năm 2011 là 18,6%.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, việc đầu tư dẫn đến dàn trải, nợ đọng, lãng phí, đình hoãn và nhiều dự án đến năm 2011 chúng ta dừng lại và cho đến nay không giải quyết được hậu quả. Nhiều gói hỗ trợ lãi suất đến nay chưa quyết toán được và để lại các hệ lụy rất lớn. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá của chúng ta thiếu sự chặt chẽ. Chính sách thực hiện trên nền kinh tế vĩ mô thiếu ổn định của giai đoạn trước. Tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao. Các chính sách hỗ trợ thì chưa sát thực tiễn. Những rào cản, điều kiện cho vay vốn của doanh nghiệp cũng chưa được công khai, minh bạch.
Chính vì vậy, gói kích thích kinh tế giai đoạn tới phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả, kịp thời, bảo đảm ổn định. Hỗ trợ thì phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực có khả năng phục hồi. Hỗ trợ cho dòng tiền và ổn định tài chính và huy động các nguồn lực quốc tế khác. Đặc biệt là phải có kiểm soát rủi ro, có giám sát chặt chẽ trong thực hiện.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ, chúng ta phải có chương trình tổng thể về phục hồi kinh tế với quy mô đủ lớn, đủ khả năng vay-trả và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Bây giờ chúng ta giải ngân đầu tư công còn chưa hết, vậy sắp tới có một cái gói kích cầu đầu tư thì phải làm sao giải ngân kịp trong năm 2022-2023. Đây là một thách thức đang đặt ra. Nếu chúng ta xây dựng một chương trình đầu tư như vậy mà công tác chuẩn bị, công tác giải phóng mặt bằng, công tác giải ngân như vừa qua thì không thể nào hấp thụ được. Có khi còn kéo dài đến 5-10 năm sau. Tất cả những vấn đề này đang là bài học và Bộ KH&ĐT đang nghiêm túc nghiên cứu, rút kinh nghiệm.
“Chúng tôi đã rút ra được 4 bài học kinh nghiệm để không lặp lại, làm cơ sở cho nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các gói giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế tới đây”, Bộ trưởng cho hay.
Đó là, cần chương trình tổng thể, quy mô đủ lớn, tính đến khả năng vay trả và hấp thu của nền kinh tế; thực hiện đồng bộ, kịp thời các chính sách tài khóa-tiền tệ, mục tiêu hỗ trợ trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ dòng tiền cho doanh nghiệp; đặc biệt cần quan tâm công tác kiểm soát rủi ro, giám sát thực hiện chặt chẽ các gói hỗ trợ.
Hải Liên