1. Bối cảnh quốc tế trước và những năm đầu đổi mới
Từ những năm 1980 thế kỷ XX, bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ; toàn cầu hóa cùng những vấn đề toàn cầu phát triển mạnh, làm cho môi trường chính trị - xã hội thế giới có những biến động lớn, sâu sắc đã tác động mạnh đến tư duy và nhận thức về con đường, biện pháp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Đảng.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực trên thế giới rơi vào khủng hoảng toàn diện và cuối cùng sụp đổ ở Liên Xô, Đông Âu, chỗ dựa vật chất và tinh thần của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta suy giảm mạnh, việc đổi mới là đòi hỏi bức thiết của tình hình, để đất nước thoát khỏi thế bị bao vây cô lập, vượt qua khó khăn, trì trệ, khủng hoảng và tìm ra con đường, cách thức mới để tiếp tục đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc CNXH tiến lên. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, hòa bình, hợp tác và phát triển, cùng tồn tại hòa bình giữa các nước, hợp tác và liên kết khu vực, quốc tế trở thành những xu thế nổi bật, cùng những bài học thành công từ các nước NICs và các nền kinh tế đang phát triển ở Đông Á vừa là những kinh nghiệm tham khảo quý giá, vừa tạo áp lực cấp bách với Đảng ta là phải đổi mới toàn diện đất nước.
Thực tiễn cải cách, cải tổ ở các nước XHCN với những bước thăng trầm gồm cả những thành tựu, công lao to lớn đối với nhân loại và cả những tổn thất nặng nề, để rồi một số nước vẫn tiếp tục hành trình trên con đường xây dựng CNXH, tạo cho CNXH hiện thực một diện mạo mới năng động, sáng tạo và phong phú hơn. Bi kịch sụp đổ CNXH ở Liên Xô, Đông Âu, cùng những thành tựu trong công cuộc cải cách, mở cửa xây dựng CNXH ở Trung Quốc đem lại cho Đảng ta bài học kinh nghiệm xương máu trong tư duy, nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH.
2. Tác động từ bối cảnh đến tư duy của Đảng về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam
Những tác động chính từ bối cảnh thế giới đến tư duy của Đảng về CNXH và xây dựng CNXH cần phân tích rõ là:
Thứ nhất, muốn xây dựng CNXH thì đổi mới là tất yếu, là vấn đề sống còn, nhưng phải có nguyên tắc, phải nhận thức lại và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới, dựa chắc vào đặc điểm, đặc thù của quốc gia dân tộc.
Đổi mới trong tư duy xây dựng CNXH là phải từ bỏ cách nghĩ, cách làm không còn phù hợp, hiệu quả, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, nhưng không cực đoan, nóng vội, vô nguyên tắc theo kiểu “phủ định sạch trơn”, phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, kiên định mục tiêu CNXH, tôn trọng quy luật, phù hợp với bối cảnh mới của thời đại. Đổi mới trong tư duy xây dựng CNXH còn là sự thống nhất biện chứng giữa kiên định với bổ sung và phát triển sáng tạo. Đảng ta nhấn mạnh, điều quan trọng đầu tiên và trên hết là “đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi, biện pháp thích hợp” . Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt được Đảng nhấn mạnh trong các kỳ đại hội sau và cụ thể hóa trong các nội dung đường lối và tổ chức thực tiễn.
Trong Cương lĩnh xây dựng CNXH năm 1991, từ những tư duy đổi mới Đảng đã rút ra những bài học là phải “nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”; “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” . Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội VII của Đảng rút ra kinh nghiệm quan trọng là phải “giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quả trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới” và “đổi mới phải toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp”.
Thứ hai, bối cảnh quốc tế tác động đến tư duy xây dựng CNXH: muốn xây dựng CNXH phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Sự tác động của bối cảnh quốc tế vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước làm lộ ra vấn đề: công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu để xây dựng CNXH ở Việt Nam. Thực tiễn trì trệ, lạc hậu của sự phát triển kinh tế theo mô hình CNXH Xô viết những năm 70, 80 của thế kỷ trước, cùng những ưu điểm và nhược điểm của các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới đã tác động mạnh mẽ, đòi hỏi Đảng ta phải có sự đổi mới tư duy, mà trước hết là tư duy kinh tế, phải nhận thức đúng đắn, là làm thế nào để phát triển kinh tế nhưng phải bảo đảm được yêu cầu xây dựng CNXH. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã kịp thời đổi mới tư duy, xác định rõ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan, là tất yếu để xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Trong điều kiện mới, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và kinh tế thị trường trên thế giới, Đảng ta ngày càng nhận rõ tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường đối với sự phát triển, mà quan trọng hơn là đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nhận thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu để xây dựng CNXH ở Việt Nam, vì thế, phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường, nhưng đó phải là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nước ta đi từ xuất phát điểm thấp, là nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, do đó Đảng xem việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu, là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH ở nước ta; xác định rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, coi đó là một “đột phá sáng tạo” trong tư duy lý luận của Đảng về đường lối đổi mới. Một trong những cơ sở quan trọng của chủ trương này đến từ nhận thức rằng, kinh tế chính là nhân tố quyết định vấn đề “ai thắng ai” trong cuộc cạnh tranh giữa CNTB và CNXH. Sự thất bại của mô hình CNXH hiện thực Xô viết dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu XHCN có một nguyên nhân rất quan trọng là từ sự chậm đổi mới, lạc hậu với thời cuộc, không nhận thức đầy đủ và theo kịp những tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tiến trình toàn cầu hóa, dẫn tới trì trệ, khủng hoảng về kinh tế, ngày càng tụt hậu so với các nước TBCN. Trên cơ sở nhận thức về sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa đã “cuốn hút tất cả các nước”, khách quan tạo ra những thời cơ, vận hội cho nước ta tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở cửa hội nhập để phát triển, Đảng đã chuyển tầm nhìn quốc tế từ cạnh tranh ý thức hệ sang cạnh tranh sức mạnh quốc gia tổng hợp với kinh tế là trụ cột. Do đó, ngay từ Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (năm 1988), Đảng ta đã đặt ra yêu cầu phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế. Hơn nữa, với sự kém hiệu quả của cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp, từ sự nhận thức lại về CNXH, về chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và từ sự tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn, Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đến Đại hội VIII (tháng 6/1996), Đảng đưa ra quan niệm quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”.
Trước yêu cầu của thời đại, từ những mặt trái, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường ở nhiều nước trên thế giới, cũng chính từ thực tiễn đổi mới kinh tế, mở cửa và hội nhập quốc tế, đã tác động đến tư duy, nhận thức của Đảng ngày càng rõ hơn về tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cơ chế vận hành và cơ chế quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đảng ta đã sớm nhận thức rõ những mặt trái, những tác động tiêu cực của việc thực hiện kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhất là trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường, như sự phân cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội, nguy cơ phai nhạt và mất bản sắc văn hóa dân tộc, sự hủy hoại môi trường sinh thái. Hơn nữa, công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm của sự phát triển là mục tiêu, nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó, Đảng đã xác dịnh rõ, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Khẳng định rõ, phải gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều này hàm nghĩa là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới quan tâm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Ngược lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội, vì con người và mỗi chính sách xã hội đều phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc những người có công, người có hoàn cảnh khó khăn theo phương châm không để ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ ba, bối cảnh quốc tế tác động đến tư duy của Đảng về hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Sự tác động của bối cảnh quốc tế, đặc biệt là những ưu điểm, hạn chế của nhà nước pháp quyền tư sản đặt ra và đòi hỏi phải đổi mới tư duy trong xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Đảng ta đã nhận thức rõ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là yêu cầu khách quan, vừa phù hợp với xu thế thế giới vừa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Trên cơ sở đặc trưng của hệ thống chính trị XHCN, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, bài học thành công và thất bại của cải tổ, cải cách ở các nước XHCN, trong thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã kết hợp chặt chẽ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng nhất quán lấy đổi mới kinh tế là trung tâm, đi trước, và cùng với đó là tiến hành đồng bộ đổi mới chính trị. Tuy nhiên, đổi mới chính trị ở nước ta không phải là thay đổi chế độ chính trị mà là quá trình đổi mới tư duy về xây dựng hệ thống chính trị XHCN, là quá trình đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức vận hành của hệ thống chính trị theo hướng tạo lập nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền CNXH của dân, do dân, vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam còn là đòi hỏi khách quan, tất yếu phù hợp với đặc điểm và xu thế thời đại cũng như yêu cầu của sự hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu rộng của đất nước.
Trước sự tác động của bối cảnh quốc tế, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ bản chất của đổi mới chính trị là nhằm xây dựng hệ thống chính trị XHCN trong sạch, vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo duy nhất của Đảng. Những biểu hiện đặc thù riêng của nhà nước pháp quyền XHCN là do bản chất giai cấp của nhà nước ấy quy định. Trong nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Điều quan trọng Đảng ta nhấn mạnh là: pháp luật XHCN là pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân, nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nắm rõ tính phổ biến của nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” . Không ngừng hoàn thiện thể chế quản trị quốc gia theo các tiêu chí pháp quyền, minh bạch, trách nhiệm giải trình, phối hợp và kiểm soát quyền lực, kiến tạo phát triển, và sự tham gia của người dân. Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là những nội dung khác biệt rất cơ bản giữa nhà nước pháp quyền XHCN và nhà nước pháp quyền tư sản. Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN là tất yếu khách quan, là biểu hiện sâu sắc tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN của Việt Nam.
Thứ tư, bối cảnh quốc tế tác động mạnh mẽ đến tư duy về quốc phòng, an ninh, đến việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc CNXH.
Sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa, những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới cuối thế kỷ XX làm thay đổi nhiều vấn đề rất cơ bản về quân sự, quốc phòng, thúc đẩy đổi mới tư duy về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đổi mới. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN đã khiến cho Việt Nam không chỉ mất đi chỗ dựa, nguồn động viên cổ vũ về mặt chính trị - tinh thần to lớn, mà còn mất đi một nguồn viện trợ vật chất - kỹ thuật với khối lượng lớn cho bảo vệ Tổ quốc. Tình hình thế giới, khu vực từ năm 1986 đến nay có những biến động sâu sắc và phức tạp, tác động nhiều mặt đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam, đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới tư duy, phát triển lý luận bảo vệ Tổ quốc CNXH cho phù hợp. Đảng đã sớm nhận thức rõ, bảo vệ Tổ quốc XHCN là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ toàn diện trên tất cả các nội dung cấu thành Tổ quốc Việt Nam XHCN, cả về phương diện tự nhiên - lịch sử và cả về phương diện chính trị - xã hội.
Qua các kỳ đại hội Đảng, trong các Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, khóa XI, Đảng ta đã xác định và không ngừng hoàn thiện những vấn đề rất cơ bản: coi giữ vững môi trường hoà bình, ổn định bền vững để phát triển đất nước là vấn đề mang tính nguyên tắc; kết hợp xây dựng với bảo vệ, lấy xây dựng đất nước mạnh lên làm phương thức bảo vệ hữu hiệu nhất; coi trọng “tự bảo vệ”, bảo vệ từ bên trong, từ trước, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; thực hiện bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc CNXH.
Thứ năm, bối cảnh quốc tế tác động mạnh mẽ đến tư duy xây dựng một nước Việt Nam XHCN trong toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế từ năm 1986 đến nay làm cho các quốc gia, dân tộc ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, tạo cơ sở, điều kiện hình thành và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của Đảng. Trước những tác động từ bối cảnh quốc tế, tư duy đối ngoại của Đảng phát triển phù hợp với nhận thức của Đảng về thế giới và nhiệm vụ phát triển đất nước trong từng thời kỳ. Giúp Đảng triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng là định hướng bao trùm của đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”, “là bạn với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị-xã hội” là một chuyển biến tư duy quan trọng về đối ngoại của Đảng. Với quan niệm này, Việt Nam có thể thúc đẩy quan hệ hợp tác với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Sự đổi mới tư duy quan trọng này được mở ra từ bối cảnh thế giới và xu thế quốc tế sau Chiến tranh Lạnh và được thúc đẩy bởi nhận thức của Đảng về khả năng vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh là một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc thay đổi nhận thức của Đảng về quan hệ đối ngoại, từ quan niệm “địch - ta” sang quan niệm “đối tác - đối tượng”. Chuyển tư duy từ “địch - ta”, sang tinh thần “thêm bạn bớt thù”, “hợp tác và đấu tranh” và quan niệm về “đối tượng - đối tác” tại Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và tiếp tục được cụ thể, hoàn thiện trong các kỳ đại hội sau của Đảng. Điều đó đã mở đường cho nước ta thúc đẩy quan hệ với tất cả các đối tác, nhất là các đối tác lớn, kể cả các đối tác có những vấn đề khác biệt với lợi ích quốc gia dân tộc của nước ta.
Trước sự tác động của bối cảnh quốc tế, của xu thế hội nhập, hòa bình, hợp tác…, Đảng ta có sự chuyển biến nhận thức từ tham gia sang chủ động, tích cực tham gia rồi chủ động kiến tạo sân chơi, luật chơi quốc tế. Thực hiện chủ trương đối ngoại đa phương; hội nhập sâu rộng với thế giới, tham gia tích cực vào hầu hết các cơ chế hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu. Đảng xác định: “đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương”, nhấn mạnh phải chủ động, tích cực trong việc định hình các thể chế, luật chơi, kiến tạo môi trường quốc tế và vươn lên đóng vai trò dẫn dắt, định hướng, trung gian, hòa giải. Điều này vừa thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế vừa nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và kiến tạo môi trường, tạo vị thế thuận lợi hơn cho đất nước.
Trải qua gần 40 năm đổi mới, trước những tác động nhanh chóng, phức tạp, sâu sắc của tình hình thế giới, khu vực đến tư duy của Đảng về CNXH và con đường xây dựng CNXH nhưng Việt Nam vẫn khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên quyết bảo vệ và không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là những điều kiện tiên quyết, cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng XHCN và đi đến thành công./. Phan Văn Lãn (Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương)