|
Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên phát biểu. (Ảnh: ĐT) |
Tại Hội thảo quốc tế tham vấn chính sách, giải pháp ngăn chặn xu hướng mức sinh thấp do Cục Dân số (Bộ Y tế) tổ chức ngày 28/8, ở Hà Nội, ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số cho biết: Thời gian qua, công tác dân số đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Việt Nam chính thức đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 khi tổng tỉ suất sinh (TFR) là 2,09 con/phụ nữ và duy trì suốt thời gian qua.
Kết quả này góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu dân số theo hướng tích cực, Việt Nam bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 tạo cơ hội cho nền kinh tế bứt phá, phát triển nhanh. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt...
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức mới nảy sinh: Việc duy trì mức sinh thay thế vững chắc trên phạm vi toàn quốc chưa thực sự bền vững, mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng, đối tượng, xuất hiện xu hướng mức sinh thấp.
Mức sinh giảm thấp nhất trong lịch sử
Mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm dưới mức sinh thay thế, tổng tỉ suất sinh năm 2023 là 1,96 con/phụ nữ. Đây là mức giảm thấp nhất từ trước tới nay và được dự báo sẽ tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo.
Xu hướng mức sinh thấp và xuống rất thấp tập trung ở một số đô thị, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Theo vùng kinh tế - xã hội, hiện có 02/6 vùng là Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế. Theo các tỉnh, thành phố, đã có tới 21/63 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp, chiếm khoảng 39,37% dân số cả nước; hầu hết là những tỉnh nằm ở vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam, đô thị hóa cao, tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mức sinh khu vực thành thị luôn thấp hơn mức 2 con/phụ nữ và gần như thay đổi không đáng kể trong gần hai thập kỷ qua (xoay quanh mức 1,7 - 1,8 con/phụ nữ). Mức sinh khu vực nông thôn giảm khá nhanh từ 2,57 con/phụ nữ (1999) xuống 2,2 con/phụ nữ (2019) và giảm xuống còn 2,07 con/phụ nữ (2023).
|
Ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số phát biểu. (Ảnh: ĐT) |
Theo ông Lê Thanh Dũng, trong điều kiện kinh tế tiếp tục tăng trưởng, đô thị hóa ngày càng nhanh, sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, xu hướng mức sinh xuống thấp sẽ càng được củng cố, lan rộng. Nếu mức sinh giảm thấp và kéo dài sẽ tác động trực tiếp, sâu sắc tới quy mô dân số, cơ cấu dân số và để lại nhiều hệ lụy như thiếu hụt lực lượng lao động, già hóa dân số nhanh và suy giảm quy mô dân số… tác động lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo dự báo của Cục Dân số (Bộ Y tế), nếu mức sinh cứ giảm với tốc độ như hiện nay mà không có các giải pháp để giảm bớt thì đến năm 2054 - 2059, dân số Việt Nam sẽ tăng trưởng âm và giảm ngày càng nhanh.
Theo tính toán, với mức sinh trung bình năm 2024, tỉ lệ tăng dân số bình quân là 0,93% và sẽ giảm còn 0,73% năm 2029, giảm còn 0,63 năm 2034, giảm tiếp còn 0,55 năm 2039. Đặc biệt, đến năm 2064, giảm còn 0,05% và năm 2069, tỉ lệ tăng dân số bình quân là 0%.
Ngược lại, nếu mức sinh thay thế vẫn được duy trì ổn định trong giai đoạn này thì đến năm 2069, dân số Việt Nam vẫn tăng nhẹ, tương đương 200.000 người mỗi năm (tăng 0,17%).
Trước xu hướng biến động mức sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về Công tác dân số trong tình hình mới; Chính phủ đã ban hành Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 và Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng đến năm 2030 với mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc.
Hiện, Bộ Y tế đang nghiên cứu, đề xuất các chính sách, giải pháp để bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia. Vì vậy, Hội thảo này là dịp để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định cũng như thực thi chính sách ở cấp Trung ương, địa phương trong lĩnh vực dân số - y tế về thực trạng và xu hướng mức sinh tại Việt Nam; các yếu tố ảnh hưởng đến số con mong muốn của các cặp vợ chồng ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp của Việt Nam; tham khảo quan điểm và chính sách ứng phó với mức sinh thấp của các nước trên thế giới, các ví dụ và thực hành tốt từ khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các khu vực khác từ đó đưa ra định hướng chung trong xây dựng chính sách nhằm duy trì mức sinh thay thế tại Việt Nam.
Tuổi kết hôn lần đầu liên tục tăng
Chia sẻ về các yếu tố tác động đến xu hướng giảm sinh, ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Dân số, cho biết, tuổi kết hôn lần đầu tại Việt Nam liên tục tăng trong các năm qua, cho thấy xu hướng kết hôn và sinh con muộn hơn. Cụ thể, tuổi trung bình kết hôn lần đầu tăng từ 24,1 tuổi (năm 1999) lên 25,2 tuổi (năm 2019). Sau 4 năm (2019 - 2023), tuổi kết hôn lần đầu đã tăng thêm 2 tuổi, từ 25,2 tuổi lên 27,2 tuổi. Năm 2023, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam giới là 29,3 và nữ giới là 25,1.
|
Tuổi kết hôn của thanh niên Việt ngày càng muộn. (Nguồn: Tổng Cục thống kê) |
Mô hình sinh muộn và sinh ít con hơn ở nhóm tuổi 25 - 29 vẫn duy trì liên tục từ 2009 - 2019. Phụ nữ thành thị sinh muộn và ít con hơn phụ nữ nông thôn.
Cụ thể, tại khu vực thành thị, mức sinh cao nhất là nhóm phụ nữ 25 - 29 tuổi, với 127 trẻ/1.000 phụ nữ.
Tại khu vực nông thôn, mức sinh cao nhất là nhóm 20 - 24 tuổi với 147 trẻ/1.000 phụ nữ. Và hiện, mức sinh của phụ nữ nông thôn hiện đã dưới mức sinh thay thế.
"Hơn 20 năm qua, mức sinh tại thành thị luôn thấp hơn mức sinh thay thế. Theo số liệu mới nhất, thành phố Hồ Chí Minh hiện có mức thấp nhất cả nước, với 1,32 con/phụ nữ", ông Hoàng cho biết thêm.
Ông Hoàng chỉ ra, trình độ học vấn và hoàn cảnh kinh tế có liên quan đến mức sinh. Số liệu năm 2023 cho thấy, người giàu nhất có mức sinh là 2 con, người nghèo nhất có mức sinh là 2,4 con, người có mức sống khá và trung bình sinh từ 2,03 đến 2,07 con.
Người có trình độ học vấn dưới tiểu học sinh tới 2,35 con, còn người có trình độ trên THPT chỉ đẻ 1,98 con.
Ông Hoàng đánh giá, có 4 nhóm nguyên nhân tác động mức sinh thấp, đó là: Học vấn; điều kiện sống được cải thiện, tâm lý thích hưởng thụ cuộc sống; áp lực kinh tế, chi phí nuôi dạy và chăm sóc con; và tình trạng nạo phá thai và tỷ lệ vô sinh xu hướng tăng.
Giảm giờ làm để nam, nữ tìm bạn đời
Tham dự hội thảo, GS.TS Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ đã phân tích nguy cơ, thời cơ và giải pháp đồng bộ về phát triển bền vững dân số và đưa ra cảnh báo: Nếu Việt Nam không có đột phá chính sách kinh tế - xã hội và chính sách dân số thì mức sinh của Việt Nam tiếp tục giảm sâu, đi theo con đường của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản như hiện nay.
|
GS.TS Nguyễn Thiện Nhân khuyến cáo cần thay đổi chính sách tạo điều kiện cho thanh niên lập gia đình, sinh con, nuôi con. (Ảnh: ĐT) |
Nguyên Phó Thủ tướng cho biết, kinh tế gần như là yếu tố đầu tiên khi được đề cập nguyên nhân kết hôn muộn và sinh ít con. Để mỗi gia đình có thể sinh được 2 con thì thu nhập, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ khi có thai và sinh con, chế độ lương và thăng tiến ở doanh nghiệp phải khuyến khích việc lập gia đình và sinh con; không tạo ra xung đột giữa việc làm và gia đình, có con. Cần có chính sách hỗ trợ người lao động mua nhà, rút ngắn thời gian làm việc...
GS.TS Nguyễn Thiện Nhân nêu rõ: Để phát triển dân số bền vững, mỗi gia đình sinh được 2 con, thì thu nhập của 1 gia đình 2 người đi làm phải nuôi được đàng hoàng 4 người (2 người lớn, 2 trẻ con). Cần chuyển từ quy định lương tối thiểu sang quy định lương đủ sống tối thiểu cho gia đình 4 người.
Thời gian làm việc của người lao động phải đủ ngắn (8 giờ lao động/ngày, 40 giờ/tuần) để họ có thời gian tìm bạn đời, chăm sóc con cái, gia đình và sở thích riêng tư.
Theo GS.TS Nguyễn Thiện Nhân: "Hãy làm cho việc kết hôn và sinh con hạnh phúc. Nếu có chính sách đột phá, nhiều năm nữa thanh niên Việt Nam vẫn còn muốn kết hôn và sinh con".
Nhấn mạnh giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ đặt ra đối với Việt Nam là cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc, Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách, giải pháp của Đảng, Nhà nước về công tác dân số, nhất là giải pháp duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc theo Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Cùng với đó, Sở Y tế, cơ quan dân số các cấp nỗ lực hơn nữa, chủ động triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao để hoàn thành các mục tiêu mục tiêu Nghị quyết 21-NQ/TW của Đảng, Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 và đặc biệt là Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng đến năm 2030.
Thứ trưởng Tuyên chia sẻ: Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong ứng phó với xu thế mức sinh xuống thấp, do vậy, Bộ Y tế rất mong các chuyên gia, các nhà khoa học trong nước và quốc tế, các tổ chức quốc tế chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam giải quyết vấn đề này.
Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên cũng đề nghị Cục Dân số tham mưu, đề xuất các giải pháp can thiệp ứng phó với mức sinh thấp mang tính khả thi, hiệu quả trong thời gian tới, góp phần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước, đặc biệt là trong xây dựng dự thảo Luật Dân số và Khung chính sách tổng thể về dân số, bảo đảm tỷ suất sinh thay thế phù hợp với vùng, miền, đối tượng dân cư và số lượng, chất lượng dân số trình Quốc hội.
Tại Hội thảo, các chuyên gia cho rằng, trước xu hướng biến động mức sinh hiện nay, Việt Nam cần nghiên cứu, đề xuất các chính sách cụ thể ứng phó, ngăn chặn xu hướng giảm sinh nhằm bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia. Quan điểm, kinh nghiệm thực thi các chính sách ứng phó với mức sinh thấp của các nước trên thế giới và khu vực châu Á – Thái Bình Dương là những bài học thực tế quý báu đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng chính sách./.
Theo báo cáo triển vọng dân số thế giới năm 2024 của Liên hợp quốc, phụ nữ ngày nay sinh ít hơn trung bình một con so với năm 1990. Hiện tại, mức sinh toàn cầu là 2,3 con/phụ nữ, giảm so với mức 3,3 con/phụ nữ vào năm 1990. Hơn một nửa các quốc gia và khu vực trên toàn cầu có tổng tỷ suất sinh dưới mức sinh thay thế (dưới 2,1 con/phụ nữ); trong khi mức sinh thay thế - mức cần thiết để duy trì quy mô không đổi trong thời gian dài mà không cần di cư.
Mức sinh thấp kéo dài tác động trực tiếp, sâu sắc tới quy mô dân số, cơ cấu dân số và để lại nhiều hệ lụy như thiếu hụt lực lượng lao động, già hóa dân số nhanh và suy giảm quy mô dân số ảnh hưởng đến sự phát triển dân số bền vững.
Hiện trên toàn cầu có khoảng 55 quốc gia có chính sách nâng mức sinh. Tuy nhiên, việc nâng mức sinh tại các quốc gia có mức sinh rất thấp hầu như chưa mang lại kết quả khả quan.
|