Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho biết việc áp dụng IFRS tại Việt Nam xuất phát từ yêu cầu của Chính phủ khi đặt ra mục tiêu đưa Việt Nam phát triển bền vững, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
Trong đó, để phát triển bền vững thì nhu cầu từng bước chuẩn mực báo cáo tài chính là cần thiết để tạo ra môi trường minh bạch thu hút vốn đầu tư.
Theo Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn, xuất phát từ nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam là nước có độ mở nền kinh tế cao, các hiệp định đều có quy định khuyến khích tự do thương mại, khuyến khích các dòng vốn đầu tư, nhất là từ khu vực tư nhân. Vì vậy, tất yếu Việt Nam cần thiết phải thực hiện chuẩn mực về báo cáo tài chính.
Ông Konaka Tesuo, Trưởng đại diện JICA tại Việt Nam cho biết, IFRS là một công cụ tài chính quan trọng, hỗ trợ nhà đâu tư có các thông tin chính xác hơn về tài chính, mặt khác có thể huy động được các nguồn lực tài chính toàn cầu. IFRS cũng là công cụ tạo ra ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế của doanh nghiệp tại các nước áp dụng IFRS.
Việc áp dụng IFRS như thế nào và sự ảnh hưởng đó ra sao thì mỗi nước khi áp dung IFRS đều có sự cân nhắc kỹ lưỡng.
Đối với Việt Nam, ông Konaka Tesuo cho biết, trong năm qua JICA đã tiến hành một cuộc khảo sát điều tra nhằm hỗ trợ những thông tin hữu ích, chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước châu Á có sử dụng IFRS trong quá trình Bộ Tài chính cân nhắc xây dựng lộ trình IFRS phù hợp nhất .
Theo lãnh đạo Cục Chế độ Kế toán và Kiểm toán (Bộ Tài chính), việc áp dụng IFRS sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực như chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp sẽ được cải thiện một cách rõ rệt thông qua việc nâng cao trách nhiệm giải trình, tăng cường tính minh bạch và khả năng so sánh... giúp báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt Nam có thể so sánh được với các doanh nghiệp khác trên thế giới.
Đồng thời, do IFRS được thừa nhận và áp dụng rộng rãi nên sẽ giúp người sử dụng báo cáo tài chính có thể so sánh tình hình và kết quả tài chính của các doanh nghiệp giữa các quốc gia khác nhau một cách dễ dàng hơn do báo cáo tài chính của các công ty được lập dựa trên cùng một hệ thống chuẩn mực nên giúp các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn trong việc huy động vốn trên thị trường quốc tế…
Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì việc áp dụng IFRS tại Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn thách thức. Tại hội thảo, một số ý kiến các chuyên cho rằng, khó khăn lớn nhất hiện nay là do thị trường vốn, thị trường tài chính của Việt Nam phát triển chưa đủ mạnh, một số công cụ tài chính như trái phiếu chuyển đổi, công cụ phái sinh, cổ phiếu ưu đãi chưa được giao dịch rộng rãi nên hầu hết các doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm trong việc thực hiện giao dịch và hạch toán các nội dung kinh tế liên quan do đó không phải lúc nào cũng có thể cung cấp thông tin về giá trị tài chính hợp lý một cách đáng tin cậy.
Đặc biệt, theo các chuyên gia, do IFRS yêu cầu một số kỹ thuật phức tạp và thực hiện một số đánh giá mang tính chủ quan như việc thực hiện các ước tính về giá trị hợp lý khi không có giá niêm yết trên thị trường, xác định giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai…. nên nếu không có thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng thì doanh nghiệp Việt Nam khó có thể áp dụng IFRS thành công.
Anh Minh