4 tháng đầu năm, tiếp tục tin vào triển vọng kinh tế 2023 

(ĐCSVN) – 4 tháng qua, các tiến độ dự án công trình đầu tư lớn thuộc các ngành, các lĩnh vực được tích cực kiểm tra, giám sát triển khai, từng bước tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Các chỉ số kinh tế - xã hội theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố tiếp tục cho thấy sự phục hồi và duy trì khởi sắc dù gặp khó.

Một số ngành, lĩnh vực chính yếu của kinh tế vẫn khởi sắc dù gặp khó

 Tin ở sự phục hồi và tăng trưởng tích cực của kinh tế Việt Nam dù còn gặp khó khăn (Ảnh: PV)

Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu 2023 của Tổng cục Thống kê, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục duy trì đà ổn định, vẫn là trụ cột vững chắc của nền kinh tế.

Song song, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 4/2023 ước tính, tăng 0,5% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, IIP ước tính giảm 1,8% so với cùng kỳ 2022. Chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ 2022 tăng ở 52 địa phương và giảm ở 11 địa phương trên cả nước. Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/4/2023 tăng 0,7% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 3,5% so với cùng thời điểm 2022.

Trong tháng 4, cả nước có gần 16.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 6,4% so với cùng kỳ 2022. Bên cạnh đó, cả nước có 9.610 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 36,6% so với cùng kỳ năm 2022; có 7.163 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 32,9%; có 5.837 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 55,2%; có 1.509 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, cả nước có 78.900 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, giảm 2% so với cùng kỳ 2022; bình quân một tháng có 19.700 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 77.000 doanh nghiệp, tăng 25,1% so với cùng kỳ 2022; bình quân một tháng có 19.2000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 4 ước đạt gần 39.300 tỷ đồng, tăng 16,4% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 131.200 tỷ đồng, bằng 19% kế hoạch năm và tăng 17,9% so với cùng kỳ 2022.

 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/04/2023 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 8,88 tỷ USD, giảm 17,9% so với cùng kỳ 2022. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 4 tháng đầu năm 2023 ước đạt 5,85 tỷ USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ 2022.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 4 tháng đầu năm 2023 có 41 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 140 triệu USD, giảm 51% so với cùng kỳ 2022; có 11 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 13,5 triệu USD, giảm 67,8% so với cùng kỳ. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 153,5 triệu USD, giảm 53,2% so với cùng kỳ 2022.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 4/2023 ước đạt 139,1 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 4 tháng đầu năm 2023 ước đạt 645,4 nghìn tỷ đồng, bằng 39,8% dự toán năm. Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 4/2023 ước đạt 135,3 nghìn tỷ đồng; lũy kế 4 tháng đầu năm 2023 ước đạt 500,3 nghìn tỷ đồng, bằng 24,1% dự toán năm.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 ước đạt 510,7 nghìn tỷ đồng tăng 11,5% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 2.007,3 nghìn tỷ đồng, tăng 12,8% so với cùng kỳ 2022.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4/2023 ước đạt 27,54 tỷ USD giảm 17,1% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 108,57 tỷ USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ 2022. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4/2023 ước đạt 26,03 tỷ USD giảm 20,5% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 102,22 tỷ USD, giảm 15,4% so với cùng kỳ 2022. Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 28,4 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 33,3 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa 4 tháng đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 6,35 tỷ USD.

Hoạt động vận tải trong tháng 4 diễn ra sôi động chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ dài ngày. Vận tải hành khách tháng 4/2023 ước đạt 388,9 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 16,6% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 1.493,9 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 24,6% so với cùng kỳ 2022. Vận tải hàng hóa tháng 4/2023 ước đạt 188,6 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 21% so với cùng kỳ. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 737,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 17,2% so với cùng kỳ 2022.

Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 4/2023 ước đạt 984,1 nghìn lượt người, gấp 9,7 lần cùng kỳ 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt hơn 3.683,7 nghìn lượt người, gấp 19,2 lần cùng kỳ 2022 nhưng vẫn chỉ bằng 61,7% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch COVID-19.

 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Theo khảo sát, tình hình đời sống của hộ dân cư tháng 4/2023 tiếp tục được cải thiện. Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong 4 tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 18,2 nghìn tấn gạo cho 204,7 nghìn hộ với hơn 1,2 triệu nhân khẩu, trong đó: Hỗ trợ gạo cho người dân dịp Tết Nguyên đán là 16,9 nghìn tấn gạo; hỗ trợ cho người dân kỳ giáp hạt năm 2023 hơn 1,3 nghìn tấn gạo.

Động lực cho tăng trưởng kinh tế 2023

Trong bối cảnh hoạt động sản xuất kinh doanh 4 tháng đầu năm 2023 gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao, đơn đặt hàng sụt giảm, lãi suất vốn vay cao…, để đẩy nhanh việc thực hiện thi công các dự án, công trình nhằm tạo đà và nâng cao năng lực sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế trong năm và những năm tiếp theo, ngay từ các tháng đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư.

Ngày 14/3/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 235/QĐ-TTg thành lập 5 tổ công tác kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh thực hiện và giải ngân nguồn vốn đầu tư công của các Bộ, ngành và địa phương. Ngày 23/3/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 08/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đẩy mạnh phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, 3 chương trình mục tiêu quốc gia năm 2023, thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương tập trung khơi thông các điểm nghẽn, hỗ trợ các nhà đầu tư và nhà thầu thi công trong thực hiện các dự án, công trình. Một số Bộ, ngành và địa phương đã thành lập các Tổ công tác nhằm kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tham mưu các giải pháp có tính khả thi thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách. Các chủ đầu tư, các đơn vị thi công cũng tập trung triển khai thi công nghiêm túc, khẩn trương nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng dự án, công trình. Để đảm bảo tiến độ theo hợp đồng, nhiều nhà thầu thi công huy động tối đa nhân lực, phương tiện triển khai các hạng mục, phấn đấu đạt tiến độ theo kế hoạch đề ra.

Việc đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án lớn có tác động sâu rộng, lan tỏa đến mọi hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như kết nối liên tỉnh, liên vùng như các tuyến đường giao thông huyết mạch, các công trình thủy lợi, các dự án về năng lượng… sẽ góp phần làm tăng thêm năng lực phục vụ cho nền kinh tế, giúp các đơn vị sản xuất giảm chi phí, tiết kiệm thời gian và nâng cao năng suất lao động. Bên cạnh đó, các dự án, công trình phục vụ cho hoạt động logistic, vận tải, viễn thông, du lịch… do các doanh nghiệp ở nhiều ngành kinh tế đang triển khai thực hiện khi hoàn thành và đưa vào sử dụng sẽ làm tăng năng lực sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời góp phần củng cố cơ sở hạ tầng của đất nước giúp cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh và bền vững.

 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Với tinh thần khẩn trương, tích cực nhằm khai thác và sử dụng tối đa hiệu quả các nguồn vốn, nhất là vốn đầu tư công, trong 4 tháng đầu năm 2023, trên cả nước đã hoàn thành các công trình lớn, có ý nghĩa quan trọng, tăng cường năng lực sản xuất cho nền kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Cụ thể:

Ngành giao thông hoàn thành được nhiều tuyến đường giao thông có ý nghĩa quan trọng, điển hình là các tuyến đường cao tốc thuộc dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông như: Mai Sơn – Quốc lộ 45 (Ninh Bình, Thanh Hóa) dài 63,37 km; cao tốc Phan Thiết – Dầu Giây (Đồng Nai, Bình Thuận) dài 99 km; hoàn thành bến cảng Việt Lào (bến số 3) cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh) với công suất 45 triệu tấn/năm.

Ngành sản xuất điện hoàn thành 8 dự án nhà máy điện và đưa vào vận hành, khai thác với tổng công suất 1348 MW. Trong đó, nổi bật là nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 với công suất 1.200 MW.

Ngành dệt may, da giầy hoàn thành 2 nhà máy may tại Hải Dương và Nghệ An với tổng công suất thiết kế 22,5 triệu sản phẩm/năm.

Ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, giấy và sản phẩm từ giấy hoàn thành 1 nhà máy chế biến gỗ tinh chế MPWOOD tại Thừa Thiên- Huế với công suất 3 nghìn m3/năm; 1 nhà máy sản xuất giấy melanie và đồ gỗ nội thất tại Hòa Bình với công suất 10 triệu tấn/năm; 2 nhà máy sản xuất bao bì tại Hải Dương và Hòa Bình với tổng công suất 17,36 nghìn tấn/năm; 1 nhà máy sản xuất túi xách ở Hà Nam với công suất 300 triệu sản phẩm/năm.

Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại, linh kiện điện tử, thiết bị điện, máy chuyên dụng hoàn thành 1 trạm nghiền xi măng tại Lai Châu với công suất thiết kế 500 nghìn tấn/năm; 1 nhà máy sản xuất nhôm thanh định hình tại Hà Nam với công suất thiết kế 130 nghìn m2; 2 nhà máy sản xuất thép tại Long An với công suất 450 nghìn tấn/năm, tại Hà Nam với công suất 600 tấn sản phẩm/năm; 1 nhà máy sản xuất giàn giáo xây dựng tại Hà Nam với công suất 10 tấn sản phẩm/năm; 1 nhà máy sản xuất thiết bị chiếu sáng led và linh kiện tại Hà Nam với công suất thiết kế 4 triệu sản phẩm/năm.

Công trình nông nghiệp và thủy lợi hoàn thành 2 hồ chứa nước tại Thái Nguyên với năng lực thiết kế 31 ha, tại Kiên Giang với năng lực thiết kế 205 triệu m3 và 1 trang trại chăn nuôi heo công nghệ cao tại Thanh Hóa với công suất 24 nghìn con heo thịt/lứa.

Dự kiến trong hai tháng còn lại của quý II/2023 hoàn thành một số dự án lớn thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo năng lực mới cho sản xuất công nghiệp như: Ngành sản xuất, chế biến thực phẩm dự kiến hoàn thành nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại Cà Mau với công suất 125 nghìn tấn/năm; Ngành sản xuất sản phẩm kim loại, máy móc thiết bị dự kiến hoàn thành nhà máy sản xuất nhôm tại Hải Dương với công suất 150 nghìn tấn sản phẩm/năm; 4 nhà máy sản xuất thiết bị cơ khí tại Quảng Ninh với tổng công suất thiết kế hơn 8 triệu sản phẩm/năm. Ngành sản xuất phương tiện vận tải dự kiến hoàn thành khu liên hợp sản xuất, lắp ráp Kim Long Motors tại Thừa Thiên-Huế với công suất 1 nghìn chiếc/năm; nhà máy sản xuất thiết bị gia dụng, xe đạp điện tại Quảng Ninh với công suất 610 nghìn chiếc/năm.

Bên cạnh đó, một số dự án lớn thuộc nguồn vốn đầu tư công đang tích cực triển khai thi công như: dự án Sân bay Long Thành (Đồng Nai) đến hết tháng 4/2023 đạt 62,5% khối lượng công việc giai đoạn san nền; Cao tốc Cam Lâm – Vĩnh Hảo (Ninh Thuận, Bình Thuận) đạt 46% khối lượng thi công; Cao tốc Diễn Châu – Bãi Vọt (Nghệ An, Hà Tĩnh) đạt 32% khối lượng thi công; Cao tốc Bến Lức – Long Thành (Đồng Nai) đạt 82% khối lượng thi công.

Đồng bộ các nhóm giải pháp tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế

 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Để hoàn thành các công trình thuộc nguồn vốn đầu tư công theo đúng kế hoạch và hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, theo Tổng cục Thống kê, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh toàn bộ hoạt động dự án đầu tư công từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, hoàn thành, quyết toán bàn giao đưa vào sử dụng ở các lĩnh vực gồm đất đai, bảo vệ môi trường, đấu thầu, xây dựng, tài nguyên và khoáng sản,… vì một khâu chậm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ dự án, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, làm giảm động lực tăng trưởng.

Thứ hai, có các chính sách bình ổn giá nguyên nhiên vật liệu và giá các loại năng lượng ổn định; đơn giản hóa các thủ tục hành chính để hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong quy trình mở rộng sản xuất, hoàn tất các yêu cầu về thủ tục trong việc xây dựng nhà xưởng.

Thứ ba, cần có các chính sách ưu tiên tập trung phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ và thiết bị hiện đại để thu hút đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Thứ tư, các Bộ, ngành tiếp tục nghiên cứu và có những giải pháp hữu hiệu để xử lý các điểm nghẽn, nút thắt về đất đai, thủ tục hành chính, thể chế để đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế.

Thứ năm, các Bộ, ngành và địa phương cần bám sát, đánh giá đúng tình hình, chú trọng nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án; Chủ động, linh hoạt trong tháo gỡ khó khăn, vướng mắc khi thực hiện dự án, chuẩn bị tốt mặt bằng sạch cho thi công. Nếu vượt quá thẩm quyền thì cần tổng hợp, báo cáo ngay cho cấp có thẩm quyền để kịp xem xét, giải quyết sớm./.

 

 
Lê Anh
484 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 839
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 839
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87141324