|
Dư nợ của 12 dự án đã chạm ngưỡng 21.000 tỷ đồng. |
Chính phủ vừa có báo cáo gửi các đại biểu Quốc hội về tình hình và kết quả xử lý tồn tại của 12 dự án, doanh nghiệp yếu kém ngành công thương.
Cụ thể, hiện chỉ có 2 dự án, doanh nghiệp có lãi là Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 1 - Hải Phòng Nhà máy thép Việt - Trung (trong đó 1 doanh nghiệp vẫn còn lỗ lũy kế, 1 dự án đang được xem xét đưa ra khỏi "danh sách đen"); 3 dự án, doanh nghiệp giảm được lỗ nhưng chưa bền vững.
Theo đó, so với năm 2017, năm 2018: Nhà máy Phân đạm Hà Bắc giảm lỗ 342 tỷ đồng, Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai giảm lỗ 208,8 tỷ đồng, Nhà máy Đạm Ninh Bình giảm lỗ 417,2 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2018, năm 2019: Nhà máy Đạm Ninh Bình giảm lỗ 134 tỷ đồng, Công ty DQS giảm lỗ 64,04 tỷ đồng, Nhà máy đạm Hà Bắc tăng lỗ 239 tỷ đồng, Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai tăng lỗ 178,2 tỷ đồng.
Đáng chú ý, 7 dự án, doanh nghiệp còn thua lỗ hoặc dở dang, dừng hoạt động. Có 5/12 dự án, doanh nghiệp có tranh chấp, vướng mắc EPC với nhiều nội dung được doanh nghiệp đàm phán nhiều lần với đối tác nhưng vẫn không thành công.
5 dự án này gồm: Dự án xây dựng Nhà máy sản xuất phân bón DAP số 2 - Lào Cai, Dự án cải tạo - mở rộng Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, Dự án nhà máy đạm Ninh Bình, Dự án Xây dựng Nhà máy công nghiệp tàu thủy Dung Quất, Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của Công ty CP. Gang thép Thái Nguyên. Tất cả các dự án này đều do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm toàn bộ hoặc một phần.
Kiên quyết phá sản nếu không thể khắc phục
“Tranh chấp, vướng mắc chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Chủ đầu tư và nhà thầu chưa thống nhất trong việc xác định giá trị quyết toán do thay đổi về thông số kỹ thuật, xuất xứ, số lượng thiết bị so với Hợp đồng đã ký và khối lượng phát sinh ngoài nội dung hợp đồng đã ký”, báo cáo chỉ ra.
Bên cạnh đó, chủ đầu tư và nhà thầu chưa thống nhất trong việc xác định thuế phải nộp và tiền phạt chậm nộp thuế của Hợp đồng; Tranh chấp quyết toán chi phí chạy thử; giá trị quyết toán thực tế không phù hợp với Hợp đồng EPC đã ký; yêu cầu bồi thường chi phí dịch vụ kỹ thuật kéo dài, chi phí bảo dưỡng khắc phục hư hỏng thiết bị, chi phí chờ đợi hướng dẫn lắp đặt thiết bị, chi phí thay đổi thiết kế, sửa chữa công trình đã thi công...
Việc đàm phán giải quyết tranh chấp đến nay vẫn không thành công. Trước thực trạng này, báo cáo của Chính phủ nêu ra 2 giải pháp xử lý.
Một là, đưa ra trọng tài hoặc tòa án để phân xử.
Hai là, chủ đầu tư tự quyết toán theo quy định của Thông tư 64/2018/TT-BTC đối với trường hợp nhà thầu không thực hiện quyết toán hợp đồng theo quy định hoặc không thực hiện các nội dung công việc để hoàn thành quyết toán.
Theo đó, đối với giải pháp đưa ra phân xử thông qua trọng tài hoặc tòa án, các doanh nghiệp đã thuê tư vấn pháp lý, sau khi nghiên cứu hồ sơ, tư vấn đã khuyến cáo việc khởi kiện để xử lý tranh chấp Hợp đồng EPC (nhất là 3 dự án thuộc Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam) sẽ không thuận lợi và khả năng thắng kiện thấp, chi phí theo đuổi vụ kiện lớn, có thể chi phí cho việc phải trả tiền cho các nhà thầu khi thua kiện cộng với chi phí theo đuổi vụ kiện sẽ cao hơn tổng số tiền đang còn tranh chấp trong các Hợp đồng EPC.
Đối với giải pháp chủ đầu tư tự quyết toán, do còn tranh chấp nên hồ sơ thực tế cũng chưa có đầy đủ để lập hồ sơ tự quyết toán. Do đó, Chính phủ cho rằng để xử lý được tồn tại này, Bộ Tài chính cần chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn việc chủ đầu tư tự quyết toán phù hợp hơn với tình hình thực tế của các dự án hiện nay.
Báo cáo cũng đề cập đến việc xử lý các dự án, doanh nghiệp nêu trên phù hợp với quy định của pháp luật, thực tế quá trình xử lý vừa qua và gắn trách nhiệm xử lý tồn tại, khó khăn đối với doanh nghiệp đúng thẩm quyền, cần bảo đảm nguyên tắc sau: Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu của doanh nghiệp trong việc thực hiện các chủ trương, giải pháp xử lý các dự án, doanh nghiệp. Xử lý các dự án, doanh nghiệp thua lỗ theo nguyên tắc thị trường, quy định của pháp luật; bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Báo cáo Chính phủ cũng cho biết, với các dự án, doanh nghiệp không có khả năng khắc phục sẽ kiên quyết thực hiện phá sản, giải thể để thu hồi tối đa vốn, tài sản của nhà nước, hạn chế thấp nhất mất vốn nhà nước; bảo đảm quyền lợi cho người lao động, an ninh trật tự xã hội và ổn định môi trường kinh doanh.
Ngoài ra, Lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty có dự án, doanh nghiệp nằm trong số 12 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành công thương chịu trách nhiệm chính, căn cứ thẩm quyền và quy định của pháp luật để chủ động xử lý các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp.
Đồng thời, cơ quan quản lý Nhà nước chức năng hướng dẫn về mặt pháp lý đối với các đề xuất, giải pháp đề ra nhằm giải quyết các vướng mắc đối với 12 dự án, đảm bảo không trái các quy định của pháp luật; phù hợp với thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, xác định rõ những nội dung vượt thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (nếu có) và đề xuất biện pháp xử lý.
Toàn bộ 12 dự án, doanh nghiệp đều đã được tiến hành thanh tra, kiểm toán, điều tra
Cụ thể, tất cả 12 dự án, doanh nghiệp đều được thanh tra ở các cấp độ Thanh tra Chính phủ, Thanh tra chuyên ngành và Thanh tra của địa phương với tổng số 24 cuộc thanh tra, trong đó có 22 cuộc đã có kết luận thanh tra.
Có 7 dự án đã được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán và đã kết luận kết quả kiểm toán, gồm: 04 dự án sản xuất phân bón của Tập đoàn Hóa chất; Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Dự án nhà máy Bột giấy Phương Nam và Dự án Nhà máy NLSH Bình Phước.
Có 4 dự án, doanh nghiệp đã chuyển hồ sơ sang Bộ Công an để điều tra (Dự án Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Quảng Ngãi, Dự án Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Phú Thọ, Dự án mở rộng giai đoạn 2 Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi polyester Đình Vũ).
|
PT