“Chủ trương một, biện pháp mười” 

(Chinhphu.vn) - Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XII) về kinh tế tư nhân thực sự tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, cho người dân, nhưng phải hành động như thế nào để Nghị quyết đi vào cuộc sống nhanh nhất.
PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn. Ảnh: VGP/Phương Liên

PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo điện tử Chính phủ về những giải pháp nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 5 về kinh tế tư nhân (KTTN).

Ba giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân

Mặc dù có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và có số lượng đông, tuy nhiên khu vực KTTN chưa thực sự trở thành động lực trong nền kinh tế. Theo ông, đâu là những nguyên nhân chính?

PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn: Thứ nhất, KTTN có số lượng rất đông, nhưng quy mô nhỏ, có tới 70% số doanh nghiệp tư nhân thuộc nhóm siêu nhỏ. Thứ hai, trong số 40% GDP do khu vực KTTN tạo ra, hộ kinh doanh đã chiếm 30%. Thứ ba, hiệu quả kinh doanh, năng suất lao động khu vực KTTN cũng không cao. Bên cạnh đó, tính kết nối của khu vực KTTN với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực KTTN với chuỗi giá trị toàn cầu cũng thấp.

Trong khi đó, khu vực KTTN lại đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản: Rào cản chưa có sự thống nhất cao về nhận thức, rào cản về môi trường kinh doanh, còn có sự bất bình đẳng giữa khu vực KTTN với khu vực kinh tế Nhà nước cũng như với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài…

Thêm một lý do khiến cho khu vực KTTN chưa thể lớn mạnh, đó là nhiều doanh nghiệp thiếu kiến thức, thiếu vốn và chưa liên kết được sức mạnh với nhau.

Theo ông, cần những giải pháp lớn nào để các doanh nghiệp tư nhân trở nên  lớn, mạnh để kiến tạo diện mạo nền kinh tế Việt Nam trong tương lai?

PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn: Theo tôi, có 3 giải pháp lớn để khu vực KTTN thực sự trở thành động lực của nền kinh tế.

Đầu tiên là phải xóa bỏ các rào cản, đặc biệt là các rào cản về môi trường kinh doanh như khả năng tiếp cận thị trường, khả năng tiếp cận nguồn lực, khả năng tiếp cận thông tin và các chi phí như chí phí không chính thức, chi phí kinh doanh, chi phí tuân thủ…

 

Để tạo hứng khởi cho khu vực KTTN và thúc đẩy khu vực này phát triển, phải cho họ thấy kết quả thực sự của việc xóa bỏ rào cản, trong đó đặc biệt là giảm chi phí. Nếu trong thời gian sắp tới, các doanh nghiệp tư nhân thấy rằng chi phí của họ giảm xuống thì đó chính là tín hiệu cho thấy Nghị quyết bắt đầu được đi vào thực tiễn. Hoặc những chỉ tiêu về cải cách thủ tục hành chính, số lượng giấy phép con giảm xuống… cũng đều là những tín hiệu tốt cho KTTN phát triển.

 

Tuy nhiên, việc xóa bỏ rào cản vẫn chưa đủ, bởi khu vực KTTN là thị trường. Do vậy, phải tạo dựng các điều kiện để thị trường có thể vận hành tốt,đặc biệt là thị trường các nhân tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai, thị trường công nghệ… Một khi nền kinh tế vận hành theo đúng cơ chế thị trường, KTTN sẽ phát triển tốt. Bản chất của KTTN là gắn chặt với cơ chế thị trường.

 

Để có sự đột phá thì nhóm giải pháp thứ 3 rất quan trọng. Phải có cơ chế chính sách cho từng nhóm đối tượng KTTN. Ví dụ, với nhóm đối tượng doanh nghiệp lớn phải định hướng theo hướng quốc tế hóa, gắn nhiều với đổi mới sáng tạo, gắn nhiều hơn với xuất khẩu và các DN lớn gắn nhiều hơn với xu hướng của cuộc cách mạng 4.0.Đối với nhóm đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải có cơ chế chính sách để cho các doanh nghiệp này tiếp cận tốt với các nguồn lực và có thể hội nhập tốt…

 

Đối với nhóm đối tượng là doanh nghiệp khởi nghiệp, nhóm đối tượng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, điều quan trọng phải tạo ra hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các quỹ đầu tư sẵn sàng tài trợ cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp.

 

Với các hộ kinh doanh cá thể, đặc thù của họ là không chính thức. Do vậy, cần có cơ chế để giảm chi phí, đặc biệt là chi phí không chính thức để họ tự nguyện và phát triển để trở thành doanh nghiệp. Không nên chuyển đổi họ sang doanh nghiệp bằng các biện pháp mang tính hành chính.

Các giải pháp được nêu trên, nếu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ hơn, đột phá hơn trong thời gian tới.

Để Nghị quyết không nằm trên giấy

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Điều quan trọng lúc này là đưa Nghị quyết của  Đảng vào cuộc sống, là tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết có hiệu quả. Làm sao để khắc phục được tình trạng Nghị quyết thì đúng, thì hay, nhưng chậm đi vào cuộc sống”. Vậy theo ông, làm thế nào để Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII “thấm” vào đời sống xã hội?

PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn: Sự thống nhất này phải bao gồm tất cả các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương và cả các doanh nghiệp. Có một thực tế là nhiều khi doanh nghiệp cũng không nắm hết được những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Họ chỉ nghe qua phương tiện thông tin đại chúng chứ không trực tiếp tìm hiểu sâu và cụ thể. Ở khía cạnh này, tôi muốn nói đến câu chuyện nghiên cứu và tư vấn cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn mới có đủ nguồn lực để đặt hàng các chuyên gia nghiên cứu và tư vấn còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chưa hẳn, họ đang còn phải lo vật lộn giải quyết các công việc thường ngày nên sẽ không có đủ nguồn lực để chi trả cho tư vấn từ bên ngoài. Chính vì vậy mà những doanh nghiệp này cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ.

Câu chuyện tăng cường nhận thức cũng phải rất đổi mới, không chỉ đơn thuần là tuyên truyền những nội dung cơ bản của Nghị quyết. Tuyên truyền cần phải theo từng đối tượng, mỗi đối tượng cần nắm được nghị quyết sâu hơn ở các góc độ khác nhau. Thông tin cũng nên được chia ra ở các tầng nấc. Tầng nấc phổ biến cho tất cả mọi người, tầng nấc đi vào chuyên sâu, có tầng nấc đi vào rất sâu trên cơ sở nghiên cứu và thực tiễn.

 

Việc thứ hai cần phải làm là có kế hoạch triển khai cụ thể, gắn với các chương trình, hành động đã và đang được triển khai. Ví dụ như cần phải gắn chặt với Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ: Về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020;Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; gắn chặt cả với kế hoạch tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn chặt với việc thực hiện 3 giải pháp chiến lược về thể chế, cơ sở hạ tầng, nhân lực…

 

Nếu tất cả các chương trình hành động và kế hoạch diễn ra một cách rời rạc thì nguồn lực sẽ bị phân tán và sẽ không tập trung được nguồn lực để có thể thực hiện nó một cách có hiệu quả được. Hiện tại, trên thực tế dường như vẫn đang tồn tại sự tách bạch trong việc thực hiện các chương trình và kế hoạch đã được đưa ra.

 

Thứ ba, chúng ta cần phải đưa ra các chỉ tiêu rất cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, đặc biệt là các chỉ tiêu về cải cách hành chính, về cải thiện môi trường kinh doanh, qua đó đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương theo những chỉ tiêu đó. Đây là một việc rất quan trọng. Bởi kế hoạch, chương trình thì đúng rồi, các bộ, ngành, địa phương suy đến cùng cũng sẽ phải thực hiện các kế hoạch và chương trình đó. Tuy nhiên, nếu kế hoạch, chương trình không đi kèm các chỉ tiêu cụ thể và không gắn với thực hiện các chỉ tiêu cụ thể đối với việc hoàn thành nhiệm vụ thì cũng khó có hiệu quả trên thực tế.

 

Thứ tư, cần triển khai các chương trình nâng cao năng lực cán bộ và cơ chế kích thích đối với cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp trung và cấp chuyên viên trong bộ máy hành chính Nhà nước bên cạnh việc siết chặt lại các kỷ cương, cũng như tăng cường tính chuyên nghiệp. Điểm nghẽn của chúng ta hiện nay nhiều khi ở cán bộ cấp trung và chuyên viên. Nếu chỉ nghiêng về sức ép hành chính và tăng cường kỷ luật sẽ dẫn đến nguy cơ bộ máy bị “đơ”, không hoạt động được.

 

Thứ năm, cần phải triển khai một cách có hiệu quả các chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó có những chương trình về nâng cao năng lực, cung cấp thông tin, kết nối doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác cũng như các doanh nghiệp nhỏ có thể kết nối với doanh nghiệp lớn để được hỗ trợ trong tiến trình hội nhập quốc tế. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy, để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính phủ, trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp.

 

Phương Liên (thực hiện)

412 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 1026
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 1026
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87189648