Hội đồng xét xử 5 người gồm 2 thẩm phán, 3 hội thẩm nhân dân, do thẩm phán Nguyễn Ngọc Huân làm chủ tọa phiên tòa. Ba kiểm sát viên: Đào Thịnh Cường (Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân TP. Hà Nội), Nguyễn Minh Đồng, Nguyễn Mạnh Thường thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa.
Ngoài 22 bị cáo bị đưa ra xét xử, 31 người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, 5 người tham gia giám định được Tòa triệu tập đã có mặt. Nguyên đơn dân sự trong vụ án này là PVN và PVC.
Trong buổi xét xử đầu tiên, có hơn 40 luật sư tham gia bào chữa quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo cũng như những người liên quan. Trong số này, có 3 luật sư bào chữa cho bị cáo Đinh La Thăng và 5 luật sư bào chữa cho bị cáo Trịnh Xuân Thanh.
Trong buổi xét xử sáng nay, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã tiến hành kiểm tra sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án, kiểm tra căn cước của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Đồng thời, phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác.
Bị cáo Đinh La Thăng tại phiên toà. Ảnh: TH.
Cố ý làm trái, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền gần 120 tỷ đồng
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Vụ án “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại PVN và PVC là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, được dư luận xã hội quan tâm. Các bị cáo trong vụ án hầu hết là những người giữ vị trí chủ chốt trong những đơn vị kinh tế quan trọng, được Nhà nước, nhân dân tin tưởng giao quản lý vốn và thực hiện những dự án, công trình lớn của quốc gia, trong đó có Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện dự án nêu trên, vì những động cơ khác nhau mà các bị cáo đã cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây thiệt hại đặc biệt lớn về kinh tế cho Nhà nước, thậm chí một số bị cáo còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lập chứng cứ khống rút tiền của dự án để ăn chia, chiếm đoạt sử dụng cá nhân. Hành vi này của các bị cáo đã gây bức xúc trong dư luận, mất lòng tin của nhân dân, cần được xét xử nghiêm minh trước pháp luật.
Trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, bị can Đinh La Thăng, nguyên Chủ tịch HĐTV PVN có vai trò chính trong việc đề ra chủ trương và chỉ định PVC thực hiện gói thầu EPC, chỉ đạo PVPower ký hợp đồng EPC số 33 với PVC trái quy định, sau đó chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban quản lý dự án căn cứ hợp đồng này cấp tạm ứng 6.607.500 USD và trên 1.312 tỷ đồng cho PVC để bị can Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng hơn 1.115 tỷ đồng sai mục đích, không đưa vào dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền trên 119,8 tỷ đồng.
Hành vi nêu trên của bị can Đinh La Thăng đã phạm vào tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Khoản 3, Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999. Quá trình điều tra, bị can thừa nhận có sai phạm trong việc chỉ đạo thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 với tư cách là người đứng đầu.
Bị can Trịnh Xuân Thanh trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, giữ vai trò là Chủ tịch Hội đồng quản trị PVC. Trịnh Xuân Thanh đã có hành vi chỉ đạo bị cáo Vũ Đức Thuận ký hợp đồng EPC số 33 để PVC được nhận tạm ứng 6.607.500 USD và trên 1.312 tỷ đồng. Trịnh Xuân Thanh đã quyết định sử dụng hơn 1.115 tỷ đồng trong số tiền tạm ứng này vào mục đích khác, không đưa vào Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền trên 119,8 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, bị can Trịnh Xuân Thanh đã đề ra chủ trương cùng bị can Vũ Đức Thuận chỉ đạo Nguyễn Anh Minh và Lương Văn Hoà lập khống hồ sơ rút hơn 13 tỷ đồng từ Ban điều hành dự án Vũng Áng- Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân, trong đó Trịnh Xuân Thanh được ăn chia 4 tỉ đồng và chịu trách nhiệm cùng bị can Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng.
Hành vi của Trịnh Xuân Thanh phạm vào các tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “Tham ô tài sản” quy định tại Khoản 3, Điều 165 và khoản 4, điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999. Cáo trạng thể hiện quá trình điều tra Trịnh Xuân Thanh không thừa nhận hành vi phạm tội, quanh co chối tội, gây khó khăn cho công tác điều tra.
Đối với bị can Phùng Đình Thực, Nguyên tổng giám đốc PVN đã có hành vi sai phạm khi cùng Đinh La Thăng chỉ đạo PVPower ký Hợp đồng EPC số 33 với PVC trái quy định, sau đó chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban QLDA căn cứ hợp đồng này cấp tạm ứng 6.607.500 USD và trên 1.312 tỷ đồng không đúng mục đích gây thiệt hại cho Nhà nước cho Nhà nước số tiền trên 119,8 tỷ đồng. Hành vi nêu trên của bị can Phùng Đình Thực đã phạm vào tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Khoản 3, Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Các bị can Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó TGĐ PVC) và Lương Văn Hoà (nguyên GĐ Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC trong quá trình giữ chức vụ trên đã cùng nhau lập khống hồ sơ rút hơn 13 tỷ đồng từ Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân. Bị can Nguyễn Anh Minh hưởng lợi hơn 3,64 tỷ đồng và chịu trách nhiệm cùng các bị can: Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng trong tổng số hơn 13 tỷ đồng chiếm đoạt được. Bị can Lương Văn Hoà được ăn chia hơn 757 triệu đồng. Hành vi của 2 bị can này phạm tội “Tham ô tài sản” quy định tại khoản 4, điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Quá trình điều tra, các bị can: Lương Văn Hoà đã khắc phục hậu quả 2,46 tỷ đồng, Vũ Đức Thuận khắc phục 800 triệu đồng, Bùi Mạnh Hiển khắc phục 300 triệu đồng, Nguyễn Thành Quỳnh và Lê Thị Anh Hoa khắc phục hơn 977 triệu đồng và đã sử dụng gần 1,2 tỷ đồng nộp thuế cho Nhà nước, Nguyễn Anh Minh khắc phục 2,26 tỷ đồng. Gần ngày xét xử, gia đình bị can Trịnh Xuân Thanh đã khắc phục hậu quả 2 tỷ đồng.
Đề nghị cách ly các bị cáo, nhân chứng khi xét hỏi
Trong phần thủ tục, luật sư Nguyễn Văn Chiến (bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc Khánh) cho rằng đây là vụ án lớn, phức tạp, có nhiều lời khai ảnh hướng đến bị cáo, vì vậy khi xét hỏi những người làm chứng có quyền lợi đối lập nhau, đề nghị Hội đồng xét xử cho cách ly các nhân chứng. Lời khai của các bị cáo cũng liên quan đến quyền lợi đối lập, mâu thuẫn nhau, đề nghị cho các bị cáo cách ly.
Luật sư cũng cho rằng vụ án được điều tra, truy tố xét xử nhanh nên có những tài liệu mà luật sư chưa kịp sao chụp, đề nghị tòa tạo điều kiện cho luật sư tiếp xúc hồ sơ vụ án. Trong thời gian HĐXX nghỉ không làm việc, đề nghị được tiếp xúc, trao đổi với bị cáo khi cần thiết.
Luật sư Đinh Anh Tuấn bào chữa cho bị cáo Phùng Đình Thực - nguyên Tổng giám đốc PVN cho biết mới thu thập được tài liệu, chứng cứ mới có giá trị gỡ tội cho bị cáo. Do vụ án có tiến độ tố tụng quá nhanh nên chưa kịp giao nộp cho chủ toạ phiên toà, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) hướng dẫn cách giao nộp chứng cứ, tài liệu ngay tại Phiên toà vì Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chưa có quy định về vấn đề này; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập thêm người làm chứng để làm rõ chứng cứ mới thu thập được là ông Hồ Công Kỳ, nguyên Chánh Văn phòng PVN thời kỳ 2010-2011.
Tại phiên tòa này, một điểm đáng chú ý là TAND TP. Hà Nội đã triển khai theo Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC của Tòa án nhân dân Tối cao quy định về phòng xử án (có hiệu lực từ ngày 1/1/2018). Theo đó, phòng xét xử không đặt vành móng ngựa. Hội đồng xét xử ngồi trên cùng, ở vị trí cao nhất. Đại diện Viện Kiểm sát và luật sư bào chữa ngồi đối diện nhau. Khi khai báo trước Tòa, các bị cáo đứng trước bục mà không phải đứng trước vành móng ngựa.
Phiên tòa dự kiến diễn ra đến ngày 21/1/2018./.
Vụ án này có tổng số 22 bị cáo bị đưa ra xét xử, gồm 17 bị cáo bị tạm giam, 5 bị cáo tại ngoại. Trong đó, 12 bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về tội "cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" theo quy định tại Điều 165, khoản 3 - Bộ luật Hình sự năm 1999, gồm: Đinh La Thăng (sinh năm 1960, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN); Phùng Đình Thực (sinh năm 1954, nguyên Tổng Giám đốc PVN); Nguyễn Quốc Khánh (sinh năm 1960, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN); Nguyễn Xuân Sơn (sinh năm 1962, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN); Ninh Văn Quỳnh (sinh năm 1958, nguyên Kế toán trưởng kiêm Trưởng Ban Tài chính Kế toán và Kiểm toán PVN); Lê Đình Mậu (sinh năm 1972, nguyên Phó Trưởng Ban Kế toán và Kiểm toán PVN); Vũ Hồng Chương (sinh năm 1953, nguyên Trưởng ban Quản lý dự án Điện lực dầu khí Thái Bình 2 thuộc PVN); Trần Văn Nguyên (sinh năm 1979, nguyên Kế toán trưởng Ban Quản lý dự án Điện lực dầu khí Thái Bình 2 thuộc PVN); Nguyễn Ngọc Quý (sinh năm 1953, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị PVC); Nguyễn Mạnh Tiến (sinh năm 1966, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC); Phạm Tiến Đạt (sinh năm 1979, nguyên Kế toán trưởng PVC); Trương Quốc Dũng (sinh năm 1982, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC).
8 bị cáo bị truy tố về tội "tham ô tài sản" theo quy định tại Điều 278, khoản 4 - Bộ luật Hình sự năm 1999, gồm: Nguyễn Anh Minh (sinh năm 1977, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC), Bùi Mạnh Hiển (sinh năm 1976, nguyên Chánh Văn phòng PVC); Lương Văn Hòa (sinh năm 1980, nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC); Nguyễn Thành Quỳnh (sinh năm 1973, nguyên Giám đốc kỹ thuật công nghệ Tổng Công ty Cổ phần miền Trung - Công ty Cổ phần Đà Nẵng); Lê Thị Anh Hoa (sinh năm 1979, vợ của bị cáo Nguyễn Thành Quỳnh, Hoa nguyên là Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Quỳnh Hoa); Nguyễn Đức Hưng (sinh năm 1983, nguyên Trưởng Phòng Tài chính kế toán, Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC); Lê Xuân Khánh (sinh năm 1976, nguyên Trưởng Phòng Kinh tế - Kế hoạch, Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC); Nguyễn Lý Hải (sinh năm 1964, nguyên Trưởng Phòng Kỹ thuật, Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch thuộc PVC).
Riêng hai bị cáo Trịnh Xuân Thanh (sinh năm 1966, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị, nguyên Tổng Giám đốc PVC) và Vũ Đức Thuận (sinh năm 1971, nguyên Tổng Giám đốc PVC) bị truy tố về cả hai tội: “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “tham ô tài sản”.
|
Thu Hằng