Theo một báo cáo mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chỉ có 6% lao động giúp việc gia đình trên toàn thế giới được tiếp cận an sinh xã hội toàn diện.
Điều này đồng nghĩa với việc hơn 94% trong số họ không được tiếp cận đầy đủ các cơ chế bảo vệ, bao gồm chế độ liên quan đến chăm sóc y tế, ốm đau, thất nghiệp, tuổi già, tai nạn nghề nghiệp, gia đình, thai sản, thương tật và tử tuất.
Theo báo cáo “Biến quyền an sinh xã hội thành hiện thực cho người lao động giúp việc gia đình: Đánh giá toàn cầu về các xu hướng chính sách, thống kê và chiến lược mở rộng diện bao phủ”, khoảng một nửa số lao động giúp việc gia đình hoàn toàn không thuộc diện bao phủ của an sinh xã hội và nửa còn lại được hưởng ít nhất một cơ chế bảo vệ về pháp lý.
Ngay cả khi họ được bảo vệ về mặt pháp lý thì cũng chỉ có một phần năm số lao động giúp việc gia đình thực sự được bảo vệ trên thực tế do phần đông trong số họ hiện đang làm công việc phi chính thức.
|
Trên thế giới có tới 76,2% lao động giúp việc gia đình (57,7 triệu người) là phụ nữ (Ảnh minh họa: iStock) |
Báo cáo giải thích rằng dù lao động giúp việc gia đình đóng góp quan trọng cho xã hội, hỗ trợ phần lớn các nhu cầu cá nhân và chăm sóc của hộ gia đình, gần 75,6 triệu lao động giúp việc gia đình trên thế giới phải đối diện với nhiều rào cản để được thuộc diện bao phủ và được tiếp cận hiệu quả với an sinh xã hội. Họ thường không thuộc diện bao phủ của pháp luật an sinh xã hội quốc gia.
Với 76,2% lao động giúp việc gia đình (57,7 triệu người) là phụ nữ, những khoảng trống về an sinh xã hội như vậy càng khiến phụ nữ đặc biệt dễ bị tổn thương.
Mặc dù rất ít lao động giúp việc gia đình được hưởng an sinh xã hội toàn diện, nhiều khả năng họ vẫn đáp ứng được những điều kiện để được hưởng trợ cấp tuổi già, trợ cấp khuyết tật, chế độ tử tuất và quyền lợi chăm sóc y tế và ở mức độ thấp hơn một chút, được hưởng chế độ thai sản và trợ cấp ốm đau. Phần lớn trong số họ không được tiếp cận với các chế độ trợ cấp an sinh xã hội trợ cấp liên quan đến thất nghiệp hay thương tật nghề nghiệp.
Báo cáo cũng nhấn mạnh sự khác biệt lớn giữa các khu vực. Ở châu Âu và Trung Á, 57,3% lao động giúp việc gia đình thuộc diện bao phủ về pháp lý và được hưởng mọi chế độ trợ cấp an sinh xã hội. Hơn 10% đối tượng lao động này được hưởng quyền lợi như vậy ở châu Mỹ; hầu như không một ai được hưởng đầy đủ các chế độ ở các Quốc gia Ả Rập, Châu Á - Thái Bình Dương và châu Phi, là những khu vực tuyển dụng số lượng lao động giúp việc gia đình đáng kể.
Báo cáo cho biết đại dịch COVID-19 đã làm lộ rõ những khoảng trống trong diện bao phủ an sinh xã hội mà lao động giúp việc gia đình phải gánh chịu. Họ là một trong số những đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong đại dịch, nhiều người bị mất việc làm và sinh kế. Nhiều người trong số những người duy trì được công việc thì thường xuyên tiếp xúc với dịch bệnh mà không có đủ trang bị bảo hộ. Họ hiếm khi có thể dựa vào cơ chế bảo vệ sức khỏe đầy đủ, trợ cấp ốm đau hay trợ cấp thất nghiệp, điều này càng khiến họ dễ bị tổn thương hơn.
|
Theo ILO, chỉ có 6% lao động giúp việc gia đình trên toàn thế giới được tiếp cận an sinh xã hội toàn diện
(Ảnh minh họa: istockphoto) |
Báo cáo cho biết những thách thức trong việc đảm bảo lao động giúp việc gia đình thuộc diện bao phủ an sinh xã hội là có thật nhưng không phải không thể vượt qua. Báo cáo chỉ ra một số tiêu chuẩn lao động quốc tế có thể giúp đưa ra các giải pháp, bao gồm Công ước về Người lao động giúp việc gia đình năm 2011 (Số 189) và Khuyến nghị năm 2011 (Số 201), cũng như Khuyến nghị về Sàn An sinh Xã hội năm 2012 (Số 202) và Công ước về An sinh Xã hội (Tiêu chuẩn Tối thiểu) năm 1952 (Số 102).
Báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị làm thế nào để đảm bảo lao động giúp việc gia đình được hưởng an sinh xã hội toàn diện, bao gồm:
Đảm bảo lao động giúp việc gia đình được hưởng các điều kiện ít nhất là tương đương với những điều kiện hiện áp dụng đối với những người lao động khác.
Điều chỉnh và đơn giản hóa các thủ tục hành chính để đảm bảo phạm vi pháp lý chuyển thành phạm vi bao phủ trong thực tế.
Đơn giản hóa và hoàn thiện các thủ tục đăng ký và thanh toán và phát triển các cơ chế tài chính thích hợp.
Thiết kế hệ thống phúc lợi phù hợp với đặc thù của công việc giúp việc gia đình.
Thúc đẩy công tác thanh tra cũng như các cơ chế góp ý và khiếu nại để đảm bảo tuân thủ pháp luật.
Nâng cao nhận thức của lao động giúp việc gia đình và người sử dụng lao động về quyền và nghĩa vụ của họ.
Thúc đẩy cách tiếp cận chính sách tích hợp có sự tham gia của các bên liên quan./.