Sáng 29/5, Quốc hội làm việc tại Hội trường nghe Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật tố cáo (sửa đổi).
Trình bày Tờ trình, Tổng Thanh tra Chính phủ Phan Văn Sáu cho biết: Dự thảo Luật tố cáo (sửa đổi) bao gồm 9 chương với 64 điều. So với Luật tố cáo năm 2011 thì Luật tố cáo (sửa đổi) có thêm một chương mới là chương V về tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo. Luật sửa đổi lần này cũng thêm mới 19 điều; sửa đổi, bổ sung 36 điều so với Luật tố cáo.
Bổ sung quyền rút tố cáo của người tố cáo
Dự thảo Luật cũng đã dành một chương (Chương VI) quy định về bảo vệ người tố cáo. Theo đó, bên cạnh một số quy định chung về bảo vệ người tố cáo, dự thảo Luật quy định cụ thể như sau: Bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố cáo; trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin về người tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (Điều 44). Bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân thân khác của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo (từ Điều 45 đến Điều 47). Bảo vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo trong trường hợp họ là cán bộ, công chức, viên chức và trong trường hợp họ là người làm việc theo hợp đồng lao động mà không phải là viên chức (Điều 48, Điều 49).
Ngoài ra, dự thảo Luật đã bổ sung quyền rút tố cáo của người tố cáo.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định mới nhằm quy định chi tiết, cụ thể hơn về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo như về việc rút tố cáo và xử lý đối với các trường hợp rút tố cáo trên nguyên tắc không bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật (Điều 21); bổ sung quy định về tạm đình chỉ giải quyết tố cáo, đình chỉ việc giải quyết tố cáo (Điều 24).
Dự thảo Luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc tố cáo. Trong đó, các định bước tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo (Điều 22) là bước quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền quyết định thụ lý hay không thụ lý giải quyết tố cáo, dự thảo Luật quy định cụ thể việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn tố cáo, đảm bảo cho việc xử lý được thực hiện một cách chặt chẽ.
Tổng Thanh tra Phan Văn Sáu cho biết: Luật hiện hành chưa quy định rõ về tổ chức thi hành kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý về tố cáo, do vậy trên thực tế đã diễn ra tình trạng có nhiều kết luận, quyết định xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đã ban hành có hiệu lực pháp luật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm minh, nhất là việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; xử lý sai phạm về kinh tế tài chính...Vì vậy gây ra những bức xúc cho người dân và xã hội.
Do vậy, dự thảo Luật đã bổ sung Chương V về tổ chức thi hành kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo, trong đó quy định về trách nhiệm của người giải quyết tố cáo; trách nhiệm của người bị tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo (từ Điều 37 đến Điều 39). Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, tăng cường trật tự, kỷ cương pháp luật.
Tuy nhiên, đối với các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm trong việc giải quyết tố cáo hiện nay còn thiếu quy định cụ thể về hành vi vi phạm và các chế tài xử lý tương ứng. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng còn thiếu các chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật tố cáo của người tố cáo và các chủ thể khác. Do đó, dự thảo Luật đã bổ sung Mục 2 Chương VIII về xử lý hành vi vi phạm (từ Điều 57 đến Điều 62). Trong đó đã xác định rõ nguyên tắc xử lý hành vi vi phạm; áp dụng hình thức xử lý kỷ luật đối với người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo, người có trách nhiệm tổ chức thi hành kết luận nội dung tố cáo; áp dụng hình thức xử lý đối với người tố cáo.
Về hình thức tố cáo, Tổng Thanh tra Phan Văn Sáu cho biết hiện có 02 loại ý kiến khác nhau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, để xác định rõ trách nhiệm của người tố cáo, tránh tình trạng lợi dụng các hình thức tố cáo để tố cáo tràn lan, cố ý tố cáo sai sự thật, ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của người bị tố cáo. Đối với tố cáo hành chính căn cứ vào tình chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị tố cáo nên dự thảo Luật chỉ quy định hai hình thức tố cáo (như quy định của Luật tố cáo năm 2011): tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, ngoài hai hình thức tố cáo là tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp, dự thảo Luật cần quy định bổ sung các hình thức tố cáo khác như tố cáo bằng bản fax, email, điện thoại…để tạo điều kiện cho người tố cáo thực hiện quyền tố cáo, qua đó kịp thời phát hiện và xử lý đối với các hành vi vi phạm.
”Chính phủ cho rằng loại ý kiến thứ nhất là phù hợp nên đã thể hiện nội dung này vào dự thảo Luật”, Tổng Thanh tra nói.
Dự thảo Luật chưa quy định về việc giải quyết tố cáo nặc danh.
Cần bổ sung thêm các hình thức tố cáo khác
Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho biết, đa số ý kiến thành viên Ủy ban Pháp luật đề nghị bổ sung thêm các hình thức tố cáo khác như tố cáo qua bản fax, email, điện thoại, qua mạng thông tin điện tử… vì đây là các hình thức thông tin tiện lợi, phổ biến hiện nay. Hơn nữa, trong một số văn bản Luật hiện hành cũng ghi nhận các hình thức này, chẳng hạn Luật Phòng, chống tham nhũng đã quy định “Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để công dân tố cáo trực tiếp, gửi đơn tố cáo, tố cáo qua điện thoại, tố cáo qua mạng thông tin điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật” (khoản 1 Điều 65); quy định như vậy cũng thống nhất với quy định của một số luật hiện hành (như Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Giao dịch điện tử …). Hiện nay, nhiều cơ quan, tổ chức cũng đã thiết lập đường dây nóng, hộp thư bạn đọc… để tiếp nhận thông tin phản ánh, tố cáo, qua đó đã thanh tra, kiểm tra và kịp thời phát hiện, xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật. Việc bổ sung các hình thức tố cáo này sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tố cáo theo quy định của pháp luật.
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Pháp luật tán thành việc bổ sung quy định “rút tố cáo”, bởi vì tố cáo là quyền của công dân, do đó, người tố cáo nhận thấy việc tố cáo không có căn cứ hoặc họ không muốn tiếp tục thực hiện quyền tố cáo thì việc chấp thuận cho họ rút đơn là cần thiết. Tuy nhiên, đề nghị cần bổ sung quy định tuy người tố cáo đã rút đơn, nhưng trong quá trình xem xét, giải quyết nếu thấy việc tố cáo là có căn cứ thì cơ quan, người có thẩm quyền vẫn có trách nhiệm kiểm tra, xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật. Việc rút tố cáo chỉ chấm dứt quyền, nghĩa vụ của người tố cáo nếu là tố cáo đúng nhưng không chấm dứt trách nhiệm bảo vệ pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo; ngược lại, nếu người tố cáo cố tình tố cáo sai sự thật thì tuy có rút đơn vẫn phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật vì hành vi tố cáo sai sự thật.
Về thời hạn giải quyết tố cáo, nhiều ý kiến cho rằng, một số thời hạn giải quyết tố cáo quy định trong dự thảo Luật còn dài, chưa phù hợp với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin. Ví dụ, về thời hạn quy định tại điểm a khoản 1, Điều 22, khoản 2 Điều 29, khoản 2, Điều 30… của dự thảo Luật đều có thể quy định ngắn hơn…/.
Thu Hằng