Chung nguồn cội, chung tay xây dựng đất nước 

Trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, Giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành ngày lễ trọng. Mỗi người dân đất Việt, nơi chân trời hay gốc bễ, dù đi đâu, ở đâu .. cũng không quên nhớ về nguồn cội của mình.

Vua Hùng được coi là vị Tổ dựng nước, là Tổ tiên của cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, tình cảm của dân tộc, vừa thiêng liêng, vừa cụ thể và hoàn toàn khác với những biểu tượng tín ngưỡng tôn giáo trên thế giới .

Giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ là biểu tượng của giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào dân tộc. Giỗ Tổ Hùng Vương là sợi dây kết nối mọi con dân Việt về với cội nguồn.

Đây chính là sức mạnh nội lực sống mãi với thời gian và đã được chứng minh, kiểm nghiệm trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cũng chính nhờ phát huy sức mạnh ấy mà hạt nhân là tinh thần đoàn kết cộng đồng và lòng yêu nước thương nòi sâu sắc, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi thiên tai địch họa để giữ gìn vẹn toàn non sông gấm vóc mà tổ tiên để lại. Đó là thắng lợi toàn diện và triệt để của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dẫn đến sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Đặc biệt sau 38 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.”[1]  Từ một đất nước cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; Nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm. Quy mô kinh tế Việt Nam tăng gấp 12 lần; thu nhập bình quân đầu người/tháng (theo sức mua tương đương - PPP) đạt khoảng 11.040 USD, tăng 8,3 lần xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 143 thế giới (năm 2021); kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng 29,5 lần, đưa Việt Nam trở thành một trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại; cán cân thương mại duy trì xuất siêu năm thứ 6 liên tiếp, đạt khoảng 4 tỷ USD (năm 2021); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần. Tỉ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn 2,23% năm 2021 (tính theo chuẩn mới). Cùng với những kết quả về phát triển kinh tế, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu được nâng lên; trang thiết bị, vũ khí hiện đại, vũ khí công nghệ cao được đầu tư nhằm tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước. Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Việt Nam đã ký kết và tham gia 15 hiệp định thương mại tự do, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó rất đáng trân trọng tự hào, tạo đà, tạo thế trong hành trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Tuy nhiên, phía trước còn không ít thách thức, khó khăn, nhất là tình hình khu vực và thế giới đang biến động phức tạp, khó lường. Song, với bản lĩnh và trí tuệ của gần 100 triệu dân Việt “con Lạc, cháu Hồng”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng luôn được nhân dân kính trọng, tin yêu; đặc biệt cả lý luận và thực tiễn và lòng dân tiếp tục khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất đất nước và xã hội nước ta.

Cùng sinh ra trong bọc trứng mẹ; dù nơi chân trời, gốc bể, dù miền núi hay đồng bằng ... chúng ta đều cùng nguồn cội; đều có bổn phận yêu nước, đoàn kết một lòng để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của dân tộc; kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, vượt qua mọi khó khăn thử thách, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phấn đấu đưa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI vào cuộc sống.

Đó chính là cách tốt nhất để chúng ta giữ gìn và phát huy những giá trị thiêng liêng của Tổ tiên và những di sản văn hóa quý báu của dân tộc - Thời đại Hùng Vương. Trí Ánh

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.103-104.

 

71 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Tin tổng hợp

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 1220
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 1220
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 77233507