Thông tin này được đề cập tại Hội thảo “CPTTP & EVFTA: Sở hữu trí tuệ và doanh nghiệp Việt” diễn ra ngày 1/7, tại Hà Nội do Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh (BCSI) tổ chức.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng BCSI cho rằng, trong bối cảnh Quốc hội đã thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) vào ngày 28/5, các doanh nghiệp Việt cần phải trau dồi thêm kiến thức về xây dựng hình ảnh thương hiệu, tăng “sức đề kháng” để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Thời gian tới, khi EVFTA chính thức đi vào hiệu lực, Việt Nam kỳ vọng ngành xuất khẩu tăng 42,7% vào năm 2025 và 44,35% vào năm 2030; đầu tư doanh nghiệp được kích thích tăng trưởng; thể chế kinh tế được cải cách, hoàn thiện để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.

 TS. Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI (Ảnh: HNV)

Theo TS. Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), dù có EVFTA, doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải cạnh tranh khốc liệt với các quốc gia khác tại thị trường EU. Và “quốc nạn” vi phạm bản quyền, tiêu thụ hàng giả, hàng nhái và tin giả là một trong những vấn đề gây ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh thương hiệu của các doanh nghiệp.

Còn ThS. Vũ Xuân Trường thuộc BCSI nhận thấy, EVFTA và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là những FTA thế hệ mới, với những cam kết sâu và bao trùm trong nhiều lĩnh vực, trong đó, nâng cao quyền sở hữu trí tuệ là một trong những nội dung mà các quốc gia cần phải thực thi.

Tuy nhiên, “trên thực tế, hầu hết các tổ chức, cá nhân, doanh nhân, doanh nghiệp đều ít quan tâm đến sở hữu trí tuệ. Việc nhận diện những thách thức đối với việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm tránh những rủi ro trong dài hạn, cũng như có những điều chỉnh phù hợp", ThS. Vũ Xuân Trường nói.

Ở Việt Nam, xâm phạm sở hữu trí tuệ xảy ra ở nhiều lĩnh vực, cả ở khu sản xuất, chế biến, lưu thông và xuất nhập khẩu. Cụ thể, trong lĩnh vực bản quyền phần mềm, giai đoạn 2006-2015, Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành thanh tra 541 doanh nghiệp, kiểm tra 27.602 máy tính, lập 499 biên bản xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là 8.613 tỷ đồng.

Do đó, ThS. Vũ Xuân Trường cho rằng, cần tập trung vào 3 giải pháp để giải quyết vấn đề trên, đó là: Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế, phối hợp đồng bộ từ nhiều bên để xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt trong thời gian tới; Việt Nam cần “đột phá” trong khâu đổi mới hệ thống sáng tạo quốc gia. Trong đó, doanh nghiệp được đặt ở vị trí trung tâm, Nhà nước, Viện nghiên cứu, các trường đại học là “ba đỉnh của một tam giác đều”. Đồng thời, doanh nghiệp cần nâng cao ý thức, không buôn bán, kinh doanh hàng giả, tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp luật; cần nâng cao nhận thức của công chúng về sở hữu trí tuệ. Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của công chúng về sở hữu trí tuệ đóng vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt là khi Việt Nam đã tham gia vào các Hiệp định CPTTP & EVFTA với các nước, các điều kiện ràng buộc về sở hữu trí tuệ nâng cao hơn, chặt chẽ và minh bạch hơn.

Ngoài ra, cần tích cực triển khai các chương chình hỗ trợ quản lý, khai thác và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà sáng tạo; chủ động và mở rộng các quan hệ quốc tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thể bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ của mình một cách tốt nhất ở trong và ngoài nước.

Phải huy động sự vào cuộc của các cơ quan liên quan: Ban chỉ đạo 389 Trung ương và địa phương, Chương trình 168 cũng như sự phối hợp đồng bộ của nhiều bên: công an, hải quan, quản lý thị trường, thuế… nhằm ngăn chặn tình trạng hàng nhái, hàng giả bởi không phủ nhận một thực tế là hiện nay, công nghệ hàng giả đã đạt tầm cao mới, có yếu tố nước ngoài nên tinh vi hơn nhiều, hơn nữa, không chỉ sản xuất tại Việt Nam mà còn sản xuất với số lượng lớn tại nước ngoài. Theo các chuyên gia, tình trạng này không đơn thuần là mức độ và phạm vi vi phạm mà còn là ở thủ đoạn vi phạm lại ngày càng tinh vi, gây khó khăn cho lực lượng thực thi công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Cũng theo các đại biểu, việc nhận diện những thách thức đối với việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm tránh những rủi ro không cần thiết.

PGS. Nguyễn Quốc Thịnh, Chủ tịch Hội đồng cố vấn BCSI; Bộ môn Thương hiệu, Trường Đại học Thương mại phân tích, trong bối cảnh hiện nay, bản thân doanh nghiệp cũng chủ động trong thực hiện chiến lược quảng bá thương hiệu và coi trọng sở hữu trí tuệ hơn, biểu hiện rõ nét trong cách thức cung ứng sản phẩm; thái độ, kỹ năng giao tiếp; cách thức ứng xử với cộng đồng cùng các cam kết thương hiệu, trách nhiệm xã hội song song với các cam kết thương hiệu, quy tắc giao tiếp, ứng xử, giá trị đạo đức, nhân văn và phong cách lãnh đạo của doanh nghiệp.

Có thể thấy, quản trị tài sản trí tuệ là tập hợp các định hướng, quyết định và hình động hưởng đến hình thành, kiểm soát, xác lập quyền sở hữu, khai thác và bảo vệ quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản trí tuệ của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Ở đó, quản trị tài sản trí tuệ cần được tiếp cận cả ở cấp độ tư duy chiến lược và thực tiễn triển khai cũng như hoạch định tổ chức, triển khai giám sát, điều chỉnh…/.

 

 
Lê Anh